CÁCH SỬ DỤNG BLOG NÀY

1. Đi tượng đc gi:1. Nhng bn tr có máu phiêu lưu thích chu du x người trong thi gian dài nhưng vi s tin ti thiu nht có th; 2. Nhng người có tâm hn rng m, sn sàng dp cái tôi và quan đim ca mình sang bên đ tiếp nhn nhng quan đim mi.


2. Quan đim: Bn suy nghĩ khác tôi không có nghĩa là bn đúng, tôi sai hay tôi đúng, bn sai. Bn suy nghĩ khác tôi bi vì tôi và bn không ging nhau. The meaning of life is not in trying to find out who is right, who is wrong; the meaning of life is in accepting each other's differences.


3. Phương tin: "Vi bát cơm ngàn nhà; Mt mình muôn dm xa; Chn chn không phi nhà; Ch nào cũng là nhà."

4. Ni dung: Bao gm nhiu lĩnh vc mà tôi quan tâm 1. Du lch bi (Budget Travelling) 2. Sng ti gin (Minimalism) 3. Tái chế và tái s dng (Upcycle & Repurpose) 4. Tâm linh (Spirituality) 5. Triết lý cuc sng

Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012

Lưu ý khi đến Bodhgaya (Bồ Đề Đạo Tràng)


1. Những gian hàng ở gần Main Temple hay cân thiếu. Để đối phó, khi đi mua hàng có thể mang theo chai nước 1 lít hoặc 0.5 lít để đối chứng. Ở Ấn độ, họ sử dụng cân quả nhiều hơn cân điện tử nên hay để quả cân lệch sang bên hoặc thu dây cân lên một nấc để cân non cho du khách. Nếu không tin vào cân quả thì bạn có thể vào các tiệm tạp hóa cân ké cân điện tử để đối chứng (chả biết cân điện tử của họ có chắc ăn không nữa, thôi đem theo chai nước 1 lít cho chắc các bạn nhỉ!) Nếu biết tiệm hay cửa hàng nào cân thiếu thì đứng trước tiệm la lối bù lu bù loa lên cho mọi người biết và cho xấu mặt cái bọn cân thiếu; người Ấn độ ở các tiệm gần đó sẽ bênh vực bạn khi bạn làm và nói đúng (và khi bạn làm thế họ còn mừng vì “hạ” được đối thủ.) Đó là một trong những điểm “quyến rũ” của Ấn độ - bạn có thể đứng giữa đường la bù lu bù loa mà không sợ bị chém như ở Việt Nam.

Tuy nhiên cần cẩn trọng vì nếu bạn là nữ và làm xấu mặt một thằng Ấn quá nhễ và đặc biệt khi hắn biết quá nhiều thông tin về bạn (như chỗ ở, lịch trình đi lại ………..) thì có thể hắn sẽ tìm cách hãm hiếp bạn cho bỏ ghét đấy!!! Có câu chuyện sau:

Một cô gái Nhật học ở New Delhi được mẹ gửi hàng sang. Thằng giao hàng cho bưu điện vòi vĩnh tiền. Cô gái cương quyết từ chối và ra bưu điện kiện hắn với lý do là mẹ cô ta ở Nhật đã đóng hết tất cả các phí rồi, vì sao cô ta phải đóng tiền cho hắn. Vậy là hắn đã rình lúc cô gái ra khỏi nhà và sơ hở để hãm hiếp cho bỏ ghét đấy!

2. Nói thách rất ghê gớm, có khi nói thách đến 15 lần. Vì vậy các bạn hãy bắt đầu với giá Rs 10. Thường các gian hàng khác nhau hay nói giá khác nhau nên có thể đi lòng vòng dọ giá trước khi quyết định mức giá muốn mua. Thậm chí khi đã trả giá và họ chịu bán nhưng nếu cảm thấy mình bị hớ giá thì không cần mua, có thể tìm lý do để thoái thác. Dân Ấn độ dễ chịu hơn người Việt Nam nên nếu bạn trả giá rồi mà không mua thì họ cũng không chửi bới ỏm tỏi (dù họ có chửi thì cũng ……….. chả hiểu.) Cứ trả giá thật thấp. Nếu họ không bán thì họ sẽ phẩy tay đuổi đi hoặc lấy khăn hất hất mấy cái, nhìn vui vui cái con mắt! (nên tôi hay đi “ghẹo” mấy người bán hàng lắm; họ nói giá bao nhiêu, mặc họ, cứ “ten rupees” (tiếng Anh) hoặc “das rupay” (tiếng Hindi) để cho họ ……….  đuổi.)

Dân Ấn độ ở đây thích nói thách lắm, nói thách một cách trắng trợn; ví dụ: phòng giá Rs. 1.500 nhưng họ sẳn sàng nói giá đến Rs. 3.000/tháng, trước mặt cả những người Việt Nam đang ở đó với giá Rs. 1.500. “Sĩ diện” là một cái gì đó vô cùng ………. xa xỉ và xa lạ với họ hay sao á? Bài liên quan: Tôi đi thuê phòng ở Bồ Đề Đạo Tràng

3. Không cho tiền trẻ ăn xin và người ăn xin; Giáo dục ở Ấn độ là miễn phí; ngoài ra tại Bồ Đề Đạo Tràng  có vô số trường học miễn phí do các tăng ni thành lập. Việc cho tiền trẻ ăn xin chỉ khiến cho cha mẹ chúng nghĩ rằng đó là một nghề “hái ra tiền” nên sẽ “khuyến khích” chúng bỏ học mà đi xin ăn cả.

Không mua tập vở hay dụng cụ học tập cho bọn trẻ bám theo ở ngoài đường. Có một số đứa nói tiếng Anh khá tốt và thấy nghề ăn xin không “ngon ăn” bằng nghề xin xỏ đồ dùng học tập. Dĩ nhiên, sau khi bạn mua cho chúng xong, vừa cất bước đi thì chúng bán ngay lại cho chủ tiệm để ăn chia huê hồng.

Nhiều đứa trẻ tại Bồ Đề Đạo Tràng mặc đồng phục và đang trên đường đến trường hoặc thậm chí đang chơi đùa cùng chúng bạn, vừa thấy bạn – một người nước ngoài – là chạy đến chìa tay ra xin tiền ngay. Lúc đầu, tôi bất ngờ vì không ngờ chúng chả có sĩ diện hay lòng tự trọng gì cả. Sau đó thì hiểu ra – do bọn Phật tử và du khách “dạy” cho cả. Thường bị trẻ con bám theo ăn xin, tôi dùng tay kéo lỗ tai chúng cho thật đau để chừa thói ấy đi. Có sư cô còn bảo, mỗi khi bị bám, sư cô giơ tay tát vào má chúng một cái chát thật đau. Đòn đau nhớ dai mà!!! Nếu ai cũng làm như chúng tôi thì có thể giúp giảm bớt tệ nạn ăn xin trẻ con tại đây đấy!

(Có một anh chàng người Mỹ sang đây dạy tiếng Anh tình nguyện cho chùa Sri Lanka, sau khi được tôi “khai tâm” về vấn đề không nên cho tiền trẻ con thì anh ta “giác ngộ” và áp dụng liền. Một lần trên đường đến chùa để dạy, một thằng nhóc mặc đồng phục đeo cặp, hình như đây là lần đầu “hành nghề” của nhóc ta thì phải bởi vì nhóc ta có vẻ dè dặt, thẹn thùng và nói lí rí trong miệng để xin tiền. Nhớ đến lời tôi “dạy”, anh chàng người Mỹ, do biết một ít tiếng Hindi, xoay qua nói chuyện với nhóc bằng tiếng Hindi, ngạc nhiên trước việc đó, nhóc ta hào hứng bàn luận về bóng ta với anh ta trên suốt đoạn đường và chia tay đi một cách vui vẻ, quên bẳng cả việc “hành nghề.” Anh chàng người Mỹ bảo, nếu anh ta mà cho nhóc tiền thì ngày hôm sau nhóc ta sẽ dạn dĩ hơn trong nghề “ăn xin” chứ không bẽn lẽn như lúc đầu và dần dần sẽ thành ăn xin chuyên nghiệp.)

Bây giờ bọn trẻ ở đây khôn lõi hơn người lớn nhiều, thấy xin tiền khó ăn nên chuyển sang xin bánh kẹo nữa đấy!

Bọn nhóc này đúng là một tương lai đáng ngại cho Ấn độ. Bọn chúng gian manh hơn người lớn nhiều. Tôi mà đi chợ mua rau cải, gặp người già bán hàng, họ thường thiệt thà, bán người địa phương sao là bán cho tôi như vậy nhưng bọn trẻ mà bán hàng thì lúc nào cũng hét giá gấp đôi; ghê gớm hơn cả người lớn, người lớn chỉ thách vài đồng thôi, người già thì bán đúng giá còn bọn trẻ thì thách gấp đôi. Thậm chí bọn chúng còn xúi mấy người lớn và người già bán giá cao cho tôi nữa đấy!!! Có người già nghe lời chúng nên cũng hét giá gấp đôi, có người thì đuổi chúng đi và bán giá địa phương (có ông cụ hiền lành đến nỗi, sau khi la một đứa trẻ như vậy thì móc túi lấy tiền rupees cho tôi xem để trả tiền nữa đấy!) Ah, hổm nay tôi còn “hiền” đấy nhé, khi bị nói thách, tôi chỉ bỏ đi không mua hàng, mặc cho bọn chúng ngồi đó với đám rau cải héo!!! Từ từ, tôi sẽ “xử đẹp” bọn trẻ con ở đây. Đứa nào nói thách, tôi tát luôn vào mặt cho chừa thói gian xảo. Dân Ấn độ có một cái hay là khi bạn nổi máu ……….. anh hùng (hay yêng hùng gì đó) thì sẽ được họ bênh vực, đặc biệt khi bạn là một phụ nữ nước ngoài.

Tuy nhiên làm gì thì làm, phải theo lối Trung Đạo, nghĩa là không hiền quá cũng không dữ quá!!!!

4. Có những thanh niên nói tiếng Anh khá tốt; họ hay đi lòng vòng, đặc biệt là ở khu vực xung quanh Main Temple hỏi xin tiền du khách để đi học các khóa học Phật giáo, tiếng Anh hoặc cao đẳng đại học,….. Chớ có dại dột mà từ bi không đúng chỗ rồi lấy tiền ra cho họ nhé!!!

Nếu các bạn dư tiền quá không biết làm gì mà lại không muốn giúp dân an nam mít nghèo khổ ở Việt Nam thì hãy gửi vào các tổ chức của Mẹ Teresa khắp nơi trên đất Ấn mà làm từ thiện nhé!!! Nếu không thì có một cách làm từ thiện đầy ý nghĩa khác – đó là giúp các tăng ni ở các vùng sâu xa, vùng quê được qua đây một lần lạy Phật; nếu có điều kiện hơn thì trợ giúp cho một tăng/ni nào đó sang đây học cái Đạo mà dạy người dân.

Lưu ý: tìm đúng tăng/ni để hỗ trợ vào thời buổi này chả dễ tí nào nhưng nếu làm được thì chỉ một việc này thôi cũng đủ đem lại phước đức bao đời cho bạn rồi.

Theo tôi, để tìm đúng người thì có thể dựa vào những điều kiện sau:

  • Người đó phải có huệ trí (người có tu mới có huệ trí, chứ nếu chỉ ở chùa mà không tu thì cũng như không bởi vậy ngày nay mới có thuật ngữ “thầy tu” và “thầy chùa”; người các bạn nên chọn phải là “thầy tu” chứ không phải là “thầy chùa” nhé!!!!)
  • Người đó phải biết chút ít tiếng Anh
  • Người đó phải có cuộc sống đơn giản

Ngài Tịnh Không giảng rằng: những minh sư luôn có cuộc sống đơn giản; và đó là một trong những đặc điểm để Phật tử tìm minh sư (không loại trừ trường hợp có người giả đò đơn giản trước mặt Phật tử để lòe nhé!). Và những người như thế thường không đòi hỏi gì nhiều cả nên việc bảo trợ cho họ thật ra chả tốn kém mấy! Ngoài ra, một sư cô cho tôi biết rằng: người càng tu nhiều thì càng hạn chế dùng tiền của bá tánh. Vì sao? Càng tu họ càng có huệ trí và càng có huệ trí thì càng thấy trách nhiệm nặng nề khi dùng tiền của bá tánh. Do đó họ sẽ dùng tiền của bá tánh càng ít càng có thể.

5. Những thanh niên địa phương hay “rình” các nữ du khách đi một mình để tiếp cận rủ rê chèo kéo qua việc kết bạn, kết huynh đệ, qua việc thực tập tiếng Anh, qua việc dẫn đi tham quan giới thiệu Bồ Đề Đạo Tràng,….. Họ có khi có cả xe mô tô và mời bạn lên xe để chở nữa đấy!!! Nếu không thấy an tâm thì từ chối cho an toàn các bạn nhé!!! Ai biết được họ sẽ dẫn bạn hay chở bạn đi đâu kia chứ?

6. Các lái xe auto ricksaw hoặc xe đạp ricksaw có thêm chiêu sau: sau khi thỏa thuận giá để đi từ A đến B, đến giữa đường, họ dừng lại và bảo điểm B xa lắm nên vòi thêm tiền. Giải pháp: xuống xe và không trả tiền (dù gì họ cũng chở bạn đi một đoạn rồi, xem ai lỗ biết liền.) Có khi họ chở bạn đến nơi cần đến và đòi thêm tiền. Hoặc trả đúng giá đã thỏa thuận hoặc không trả tiền luôn cho bỏ ghét! Ai cầm tiền trong tay là người đó nắm cán mà! Khi bạn đưa tiền mà họ không nhận thì lấy lại tiền và đi luôn vào trong, đảm bảo họ sẽ chạy theo đòi. Thường tôi làm thế này: khi họ đòi thêm tiền thì cứ họ đòi thêm một tiếng thì tôi rút lại một tờ, cứ thế xem ai lỗ thì biết!

7. Một số Phật tử Việt Nam sang đây và cúng dường cho các nhà sư nước khác bằng tiền ………. Việt Nam. Các vị cúng dường xong thì ngoắc đít về nước, người ở lại mới mệt nè! Vì sao? Các sư không dùng được tiền Việt Nam (cũng không có chỗ nào nhận đổi tiền Việt Nam cả) nên tìm người Việt Nam để đổi. Không ngờ tiền Việt Nam có giá trị qua thấp nên các sư sẽ nghi ngờ người đổi tiền cho mình. Thật là nỗi oan Thị Kính cho cả người đổi tiền lẫn nhà sư!

7. Nhiều vị qua đây hay cúng dường tiền cho các nhà sư, trong đó có vô số sư giả trà trộn vào. Ngoại trừ cố ý cúng dường cho sư giả. Nếu không thì cách sau sẽ giúp bạn phân biệt thật giả:

Sư Nam Tông không bao giờ khất thực trái giờ (họ ăn trước ngọ nên không bao giờ khất thực sau 11h trưa.) Ai mà ôm bình bát trái giờ thì có thể là sư giả. Ngoài ra sư thật không phải là ăn xin nên họ chả bao giờ chìa bình bát ra khi bạn đi ngang qua; đối với sư thật, cúng dường hay không cũng không sao, bạn cúng dường thì bạn có phước chứ có phải họ có phước đâu; sư giả thì thấy bạn từ xa đã sửa soạn tư thế sẳn, khi bạn đi ngang qua thì cố ý đứng ra ngoài cho bạn thấy hoặc chìa cả bình bát ra trước bạn nữa cơ.

Sư Bắc Tông thì có ông nào cầm bình bát đâu!

8. Không tặng người Ấn độ những vật phẩm có hình Đức Phật, ví dụ: bút bi có nắp là hình Đức Phật? Vì sao? Khi sử dụng xong thì họ sẽ vứt hình Phật lung tung. Tội cho cả họ lẫn mình các bạn nhé!!!!
Những cây bút bi có hình Đức Phật.

9. Nhiều vị mua móc khóa hình Phật về tặng người thân ở nhà. Nhiều bà ở quê có thói quen cho chùm chìa khóa vào túi quần hoặc lận vào cạp quần. Móc khóa có hình Phật mà họ làm thế thì có……… chết không chứ?????




Tôi đi thuê phòng ở Bồ Đề Đạo Tràng


Do ở chùa Miến Điện (Burmese Vihara), phòng có giá Rs 100/ngày, vị chi khoảng Rs 3.000/tháng (tương đương 60 đô Mỹ), tôi dự định ở Bồ Đề Đạo Tràng đến vài tháng nên tìm nơi cho thuê theo tháng có giá rẻ hơn. Ngoài ra, lầu 4 nơi tôi ở do ở tầng trên cùng nên vào mùa hè thì khá nóng, đặc biệt khi nhiệt độ lên 50 độ C thì giống như ở trong một cái lò thiêu; vả lại, những người ở chung tầng đã đi nơi khác hết nên có thể tôi sẽ ở đó một mình (một mình ở nguyên tầng lầu thì sướng quá còn gì nhưng tôi lại mắc bệnh……. sợ ma.)

Gặp sư cô Tĩnh Hoa ở Tháp (Main Temple – Mahabodhi Temple), cô bảo mới dọn phòng và cũng ở cùng tòa nhà với sư cô Tuệ Ngộ (người ở Bồ Đề Đạo Tràng cả 6-7 năm). Tôi theo cô Tĩnh Hoa đến khu nhà trọ này. Đa số người ở đây đều là tăng ni các nước. Phòng cô Tĩnh Hoa dưới đất, khá tối. Cô ấy bảo như thế tháng 5-6 sẽ đỡ nóng. Do trong phòng có toilet và nhà tắm nên phòng có hơi ẩm và lại có mùi.

Lúc ấy cô Tuệ Ngộ điện thoại bảo cô Tĩnh Hoa ra nhà hàng ăn trưa. Tôi từ chối mãi không được nên đi theo ra đó. Tổng cộng bữa trưa cho 5 người là Rs. 340 (có mời 1 sư Thái Lan và một ni Miến Điện.) Vừa gặp tôi ở nhà hàng, vị sư Thái hỏi ngay: Có phải tôi là người đạp xe đi vòng quanh thế giới không? (Sao mình nổi tiếng thế nhỉ? Hihihihih) Ah thì ra cô Tuệ Ngộ nói cho vị sư này nghe. Vị sư này thích nói chuyện với tôi vô cùng (chắc thấy tôi “liều” quá nên muốn xem tôi “liều” cỡ nào đây mà?)

Khi ăn xong, cô Tĩnh Hoa bảo con trai chủ nhà vừa mới về đến nên bảo tôi về xem phòng. Phòng ở lầu 2, trước đây con trai chủ nhà ở (anh ta vừa cưới vợ) nên phòng có nhiều tiện nghi hơn các phòng khác và điện thì 24/24h do sử dụng cả hai hệ thống điện – nhà nước và tư nhân.

Mọi người – gồm cô Tĩnh Hoa, cô Tuệ Ngộ và ni cô người Miến Điện- khuyên tôi nên ở phòng này bởi vì toilet không bốc mùi và phòng lại mát mẻ. Khi tôi hỏi giá thì anh ta bảo Rs. 3.000/tháng trong khi những người khác chỉ trả có Rs. 1.500/tháng. Tuy nhiên, do phòng có điện 24/24 nên ai cũng nghĩ là phòng sẽ có giá cao hơn phòng của họ nhưng cao đến thế là hơi mắc. Anh ta bảo do những người khác ở lâu hơn và là học sinh nên giá rẻ hơn. Tôi bảo giá Rs. 3.000 là đắt quá nên không thể ở; anh ta bảo có thể xuống giá một tí. Ah thì ra là nói thách với tôi đây mà. Được, bà cho biết tay. Tôi nói thật cứng: “I don’t want to pay more than Rs. 1.500” và đứng dậy dợm bước đi. Thấy có thể “hụt con mồi” nên anh ta đồng ý và nói: This price is only for you.

Mấy sư cô có vẻ “nể” sự cứng rắn khi trả giá của tôi (do tôi rành bọn Ấn độ quá mà; không cứng rắn với họ thì họ tìm cách kèo nài miết.)

Tuy nhiên căn phòng này dù tốt hơn những căn phòng khác nhưng cũng ẩm thấp và không có nhiều ánh nắng. Những tháng ngày “sống hoang dã” rèn luyện cho tôi thành một người yêu ánh nắng và môi trường tự nhiên rồi.

Tôi đi qua dãy nhà khác, toàn là những căn phòng mới xây để xem. Phòng mới nên đẹp hơn và trông giống phòng ở khách sạn hơn nhưng nóng hơn và không có cảnh tự nhiên. Tôi phân vân. Giá phòng ở đây chỉ ½ so với giá phòng tôi ở tại Burmese Vihara nên tôi hẹn hôm sau dọn đồ đến.

Khi về căn phòng ở Burmese Vihara, nghĩ đến việc phải chia tay nơi này, tôi thấy……….. đau lòng (đây là một trong những attachment, gây phiền não cho con người nè! Đó là mê nơi mình ở nên không muốn đi đâu cả.) Phòng của tôi tại đây thanh tịnh mát mẻ, nhìn ra phía sau nên không bị ảnh hưởng nhiều bởi tiếng ồn từ xe cộ dưới đường. Ngay trước cửa phòng là một cây thốt nốt; trên cây có mấy chú sóc nhỏ đáng yêu, sáng nào cũng hát cho tôi nghe; chim chóc đậu khắp các cây gần đó và líu ríu cả ngày. Từ cửa phòng nhìn ra ngắm cảnh hoàng hôn thật đẹp; mặt trời đỏ thẫm từ từ đi xuống. Trên cái cây to, mặt bên kia của phòng, buổi chiều, từng đàn chim bay về tổ, ngang qua đây, trắng xóa, tuyệt đẹp! (Ấn độ là một quốc gia ăn chay nên họ sống rất hài hòa với thiên nhiên chứ không giống như Việt Nam, chỉ trừ có cái chân bàn là không ăn thôi, còn lại thì “Gặm” tất! Quốc gia người ta ăn chay mà mọi người qua đây phóng sanh là phóng sanh cái nỗi gì????)

Nghĩ đến cảnh phải chia tay phong cảnh thanh bình nơi đây, tôi ……. đau lòng quá!!

Buổi tối, gặp sư cô Tuệ Ngộ ở tháp, tôi nói: Tôi thích Burmese Vihara nhưng do cả tầng lầu chỉ một mình tôi ở nên tôi …….. sợ ma. Vậy là sư cô dạy tôi sống trong Chánh Niệm để diệt trừ nỗi sợ. Chánh Niệm nghĩa là tâm luôn ở trong thân và khi nỗi sợ đến thì hãy nhìn thẳng vào nó như nhìn vào chính bản thân mình trong một cái gương soi. Khi nỗi sợ đến thì tự nói: Tâm ta đang khởi niệm lo sợ. Lo sợ. Lo sợ. Nhưng mà ta sợ gì?

Sau đó cô giảng về sự vô thường của tấm thân: cuộc sống của tấm thân chỉ được duy trì bởi một hơi thở; thân do 4 yếu tố tạo ra: đất (da, xương, thịt), khí (hơi thở), nước (máu), lửa (hơi ấm). Nhờ có 4 yếu tố này hợp lại mà thành một tấm thân; khi 4 yếu tố này tách ra thì thân không còn hoặc chỉ cần thiếu một trong bốn yếu tố này thì thân bị hoại. Người ta không biết nên chấp tấm thân này thành mình và yêu quý nó đến nỗi lo sợ nó bị tổn thương, bị hành hạ,…. Do đó mà có nỗi sợ. Tóm lại, xuất phát của nỗi sợ là do si mê, không biết tấm thân là vô thường.

Tôi thấm bài học và không còn thấy sợ ma khi ở Burmese Vihara nữa. Ngoài ra các sư cô còn bảo rằng ở chùa sẽ tốt hơn do đóng tiền phòng cũng là để cúng dường cho chùa và không khí trong chùa “trong lành” hơn bên ngoài nhiều.

(Một mình “chiếm hữu” cả tầng 4 được thêm một thời gian, tôi dọn xuống căn phòng ở lầu 2 để tránh nóng.) Bài liên quan: Căn phòng xinh xắn của tôi ở Bồ Đề Đạo Tràng

Cúng dường Tam Bảo bằng gì?


Có câu chuyện sau:

Thuở xưa có người con gái mồ côi cha mẹ lúc năm bảy tuổi, không có bà con quyến thuộc nên mới đi lang thang để xin ăn, cô lớn dần theo ngày tháng. Năm cô 17 tuổi nhằm ngày rằm tháng 7, cô nghe người ta rủ nhau đi lạy Phật cúng chùa. Cô cũng muốn cúng chùa nhưng nghèo quá không có gì để cúng. Hôm ấy chỉ xin được một xu, cô bèn nhịn ăn để cúng chùa. Cô nghe nói chúng mà chư tăng hưởng hết, phước được nhiều nên cô muốn cúng dường hết chư tăng nhưng chỉ có một xu thì làm sao đủ? Cô bèn mua một xu muối đem vô chùa cúng. Hòa thượng trong chùa biết được tâm niệm của chúng sanh nên bảo đánh chuông trống để đón một đại thí chủ. Cô nghe đánh chuông trống mà vẫn không biết gì nên rón rén đi xuống bếp mà tìm bà thường trụ trình bày ước nguyện của mình, bà hứa giúp. Bà dùng muối của cô cúng nêm canh cho chư tăng ăn. Như vậy thì toàn thể chư tăng trong chùa ai cũng thọ nhận của cúng dường của cô. Sau khi cúng dường cô trở lại kiếp sống hành khất lang thang.

Lúc bấy giờ nhà vua chọn dâu. Nhiều tiểu thơ công chúa đến, thái tử đều chê. Nhà cua ra lệnh tùy ý thái tử muốn chọn ai thì chọn. Một hôm thái tử đi đến làng nọ, thấy trên đình có chòm mây ngũ sắc, khí vần xoay trên nóc đình. Thái tử vào đình thấy có cô con gái nghèo khổ ăn mặc rách rưới đang ở đó. Thái tử xót thương cho rước về cung. Sau khi tắm gội sạch sẽ, ăn mặc đàng hoàng thì trông cô thật xinh đẹp. Thái tử dẫn lên trình vua cha; nhà vua cưới cô cho thái tử.

Sau khi vua băng hà, thái tử lên ngôi, cô làm hoàng hậu. Khi làm hoàng hậu, cô xa giá chở đến cả xe vàng bạc mà hòa thượng trong chùa không cho đánh trống đón cô như một đại thí chủ cúng dường xu muối ngày xưa.

Câu chuyện này cho thấy Phật Pháp quý trọng lòng thành chứ không quý trọng tiền của nhiều. Nếu có tâm thành hướng về Tam Bảo, luôn nghĩ lành, nói lành, làm điều lành là đã cúng dường Tam Bảo rồi.

Nguồn: Trích sách “Những Cánh Hoa Đàm.” Tác giả: Thiền sư Thích Thanh Từ. Nhà xuất bản: Hội Thiền Học Việt Nam. Năm 2003. Trang 107-109.

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012

Sao cứ lấy của người NGHÈO mà cho người GIÀU mãi thế nhỉ???????????????

Cuộc sống nhiều khi thật lạ!!!!!!!!!!!!

Con người ta cứ thích làm ngược mà lại nghĩ mình đang làm đúng và rủ rê cả một đám lâu la đệ tử làm theo.

So về mọi mặt, thu nhập bình quân đầu người (GDP), giáo dục, tài nguyên, nhân tài,..... Việt Nam kém xa Ấn độ. Vậy mà không hiểu sao Phật tử Việt Nam lại cứ quyên góp tiền đem sang đây cho người Ấn độ mãi thế nhỉ??????? Đời thật lạ!!!! Ai lại lấy của người nghèo mà đem cho người giàu thế nhỉ? Chắc chỉ có người Việt Nam mới làm được thôi hay sao ấy????

Việt Nam vừa nghèo, vừa bị nước lớn ăn hiếp (cụ thể là Trung Quốc) vừa cạn kiệt tài nguyên khoáng sản, vừa chịu đủ thứ tệ nạn. Ấn độ vừa giàu (có thể tranh với Trung Quốc về ngôi vị number 1 trên thế giới trong tương lai) vừa đông dân (nên dĩ nhiên thừa nhân tài), quốc gia rộng lớn (lớn thứ 7 trên thế giới), dù cũng chịu đủ thứ tệ nạn nhưng dân Ấn độ "keo rít," một đồng xu cũng không muốn bỏ ra. Vậy mà không hiểu sao người Việt Nam cứ đi hành hương qua đây lại lấy tiền cho họ một cách vô cùng bừa bãi.

Dân nghèo ở Ấn độ có tài khoản trong ngân hàng tất (do chính phủ tài trợ), chưa chắc người nghèo Việt Nam có tiền gửi ngân hàng đâu các bạn nhé!!! Giáo dục Ấn độ miễn phí từ mẫu giáo đến đại học (có nơi nào trên thế giới, người dân được hỗ trợ về giáo dục như thế chưa nhỉ????)

Người dân Ấn độ vừa đen đúa vừa ở dơ nhưng họ không nghèo (so với Việt Nam). Trong khi đối với người Việt Nam, ai đen và dơ là người nghèo. Đối với người dân Ấn độ, mặt đất với họ là một nên thường xuyên thấy cảnh họ nằm ngồi la liệt dưới đất, kể cả giai cấp trung lưu cũng ngồi dưới đất. Đối với người Việt Nam,chỉ có bọn người nghèo mới dẹp bỏ cái sĩ diện mà nằm ngồi dưới đất.

Cảnh đợi tàu ở ga Gaya.

Thế là dân Việt Nam "bị lừa" (do thiếu hiểu biết về văn hóa Ấn độ) nên khi qua Ấn độ, mình lại thấy quanh mình toàn người nghèo (do ở đâu cũng thấy dân đen và dơ cả), vậy là móc tiền ra cho một cách ................... vô tư. Đã thế còn về nước kêu gọi bà con góp tiền cho họ nữa chứ. Bà con nhiều người chưa đến Ấn độ hoặc có đến nhưng do vô minh mất trí cứ ngỡ dân Ấn độ nghèo thiệt nên ki cóp tiền gửi qua hỗ trợ người dân trên đất Phật.

Nói chi xa, ngay tại Bồ Đề Đạo Tràng, hàng năm, biết bao tăng ni và Phật tử hành hương đến mua đồ tặng như chăn bông, quần áo, thức ăn, tiền bạc, thậm chí cả tivi, xe đạp, tủ lạnh nữa cơ. Tôi nghĩ bụng nếu tôi là người Ấn độ ở đây sẽ cười thúi mũi cái bọn Phật tử kia!

Thấy cảnh người ta vung tiền ra cho người Ấn độ, tôi xót tiền (tiền người khác chứ không phải của tôi) và nghĩ: Việt Nam có giàu hơn ai đâu mà sao không quyên tiền cho người nghèo ở Việt Nam nhỉ? Dù bà con có không thích chính phủ thì đó là chuyện của chính phủ chứ dân tình thì có tội tình gì mà ghét lây họ, rồi thay vì đem đồng tiền do mình ky cóp, cắc củm giúp đúng người nghèo, mình lại toàn đem cho người giàu. Đó là chưa kể những người Việt ở Việt Nam nghe lời "xúi giục" của một số tăng ni góp tiền cho người giàu hơn mình. Thật lạ!!!!!!!!!!

Ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc ăn hiếp, lấy hết đồ nghề, sao mình không giúp họ???? Trẻ em ở các vùng sâu xa phải vượt suối đến trường, vào mùa nước lũ có bao đứa trẻ chết trôi hoặc gặp nguy hiểm khi vượt suối tìm con chữ, sao mình không quyên tiền xây cầu cho tụi nó đỡ khổ nhỉ? Bà con vùng núi còn đói ăn khát uống, sao mình lại làm ngơ được nhỉ? Thế mà suốt ngày cứ nêu cao gương từ bi, phát tâm bồ đề cứu giúp ................  người giàu và bỏ mặc ....................  người nghèo chết đói. Đúng là đời thật lạ!!! Đến bao giờ mới hết cảnh người nghèo không giúp mà lại giúp người giàu, bao giờ mới hết cảnh người nghèo quyên tiền để giúp người giàu vậy nhỉ?

Vì sao tôi cho là người Ấn độ "keo rít"? Ví dụ dưới đây sẽ nói lên tất cả:

Do được chính phủ hỗ trợ nên ở một số vùng, sinh viên đại học chỉ cần 2 đô Mỹ (HAI ĐÔ LA MỸ) là có thể mua được một cái laptop. Tuy nhiên sinh viên Ấn độ lại không mua. Khi bạn hỏi họ vì sao? Câu trả lời: Trường có phòng máy vi tính miễn phí, tại sao không sử dụng mà lại tốn hai đô để mua laptop???????

Họ keo rít thế nên tiền toàn cất cả vào ngân hàng. Khi được cho đồ mới, họ cất cả vào tủ và lấy đồ cũ ra mặc. Vậy là người Việt Nam thấy thế, lại điệp khúc: "Ôi sao dân Ấn độ khổ thế!!! Phải quyên tiền cho họ thôi!"

Khi chúng ta bị Trung Quốc ăn hiếp, cứ an tâm đi bà con!!!!!!!

Trung Quốc lại lấy tàu, thả ngư dân

Theo luật nhân quả thì kiếp sau những người Trung Quốc chuyên đi "ăn hiếp" người Việt Nam thế này sẽ tái sanh thành người Việt Nam cả. Thấy chúng làm dữ, bà con hung hăng phản đối. Hà, có ai nghĩ rằng kiếp trước mình là người Trung Quốc, chuyên đi ăn hiếp các nước nhỏ nên kiếp này phải chịu làm người dân nước nhỏ và bị ăn hiếp lại không vậy?

Luật nhân quả công bằng lắm đấy!!!! Nên cứ yên tâm mà ăn hiền ở lành đi, kiếp sau sẽ tái sanh ở một nơi tốt hơn, không bị mấy nước lớn đàn áp. Nếu hung hăng quá thì kiếp sau có khi thành người Trung Quốc, đi đến đâu cũng bị ghét hết đó.

Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

Mười loại MA


1. Ma oan nghiệt nhiều đời:

Đó là nghiệp chướng nhiều đời.

Gặp ma này phải khẩn thiết sám hối, mong uy lực Tam Bảo gia hộ khiến những oan nghiệt nhiều đời này tự thối tan, tự tiêu diệt + phải phát nguyện lớn làm lợi ích tất cả chúng sanh.

2. Ma bên ngoài đến làm mê hoặc:

Đó là người làm chướng, kẻ bất tín/nhỏ mọn, người sang hèn không đồng bực.

Phải tự hạ mình, tu dưỡng đạo đức lớn mới khỏi người ngoài làm chướng. Học đức khoan dung, nhẫn nại lớn.

3. Ma phiền não:

Phiền là chạy theo ngoại cảnh; não là tự tâm sanh ra. Ví dụ:

  • Thấy sắc, tâm sanh là tâm dâm phiền não.
  • Thấy giết, tâm sanh là tâm ác phiền não.
  • Thấy của, tâm sanh là tâm trộm phiền não.
  • Thấy vật, tâm sanh là tâm tham phiền não.
  • Với người, sanh mạn là ngã tướng phiền não.
  • Với kẻ thấp, kiêu ngạo là phiền não tự đại.
  • Gặp cảnh nghịch, sanh sân là tâm khuể phiền não.
  • Gặp cảnh thuận, vui mừng là phiền não thích ý.
  • Gặp oan gia, sanh ghét là tâm hận phiền não.
  • Cùng thân thích, sanh ưa là tâm tư phiền não………..

Tóm lại, với tất cả cái thấy bên ngoài mà trong sanh tâm thủ xả, đều là phiền não.

Gặp ma này, phải nhớ đến câu: "Vật từ cửa đem vào, không phải là của báu trong nhà"

“Của báu trong nhà” là gì? Mọi người sẵn có, luôn luôn đầy đủ, tánh tự bản nhiên, vào phàm vào thánh không đổi, không sanh không diệt, xưa nay bình đẳng, một đạo sáng suốt.

4. Ma sở tri:

Đó là lý chướng. Lý chướng là gì? Tức là biết ta đắc ngộ, biết ta thông Tông, biết ta minh giáo, biết ta hội lý, văn ta lỗi lạc, ta thấy sâu rộng, ta giữ giới nghiêm, ta được chánh định, ta có trí tuệ, ta đã chứng không, ta được tự tại, ta không còn ngại, biết ta được thông, biết ta được diệu, ta đã chứng đạo, ta được thành Phật ... Tất cả cái biết đó đều là lý chướng.

Ma phiền não là giả cảnh; ma sở tri là nội tâm.

Ma sở tri này thuộc pháp chấp nên khó đoạn, kể cả hàng Bồ Tát vẫn còn chút sở tri ngu.

Phải dũng mãnh tinh tấn vô biên, phải buông thân mạng, nỗ lực hành trì như hình ảnh và lời quả quyết của bậc Đại Sĩ dưới cội Bồ Đề năm xưa: "Nếu không đạt Đạo dù thân này tan nát thành tro bụi, ta quyết chẳng rời chỗ ngồi này".

5. Ma tà kiến:

Đó là chấp chướng. Ví dụ các cố chấp như:

  • Chấp tánh chẳng hoại gọi là chấp có
  • Chấp tánh vốn không gọi là chấp không.
  • Chấp vốn bất tử gọi là chấp thường.
  • Chấp theo hơi hám diệt gọi là chấp đoạn.
  • Chấp không sanh ra có là kiến chấp thuộc tự nhiên.
  • Chấp khí hóa ra hình là thuộc chấp tà nhân...

Tóm lại, gồm các loại cố chấp chẳng có, chẳng không, tức có, tức không và tất cả tà chấp, tà kiến, nhân duyên tự nhiên, đều chẳng rời hai đầu có không, đoạn thường, tự chướng bản lý, dần dần xa vào các ngõ tẻ.

Còn thấy hai, còn vọng tưởng; muốn dứt vọng tưởng, chớ thấy hai. Muốn đến chỗ chẳng thấy hai, chỉ một phen "biết vọng liền buông". Buông hết, bố thí sạch, tự nhiên yên ổn. Người tu hành nào không điều được tâm, cứ để buông lung, ruổi theo cảnh ngoài, sẽ vướng các chấp, hoặc có, hoặc không, hoặc đoạn, hoặc thường...

6. Ma vọng tưởng:

Đó là tự chướng. Ví dụ:

  • Vọng tưởng ta ngộ đạo
  • Vọng tưởng ta tu chứng
  • Vọng tưởng ta được định
  • Vọng tưởng ta phát Huệ
  • Vọng tưởng ta biết nhiều
  • Vọng tưởng ta giỏi văn
  • Vọng tưởng ta có danh hiển đạt
  • Vọng tưởng nhiều người cung phụng ta
  • Vọng tưởng ta làm thầy thiên hạ
  • Vọng tưởng nhiều người qui hướng ta
  • Vọng tưởng ta nối tiếp Tổ đăng
  • Vọng tưởng ta sẽ làm trụ trì
  • Vọng tưởng ta hoá Đạo
  • Vọng tưởng ta truyền lục
  • Vọng tưởng nhiều người nối dõi ta
  • Vọng tưởng ta sẽ được nhập tạng
  • Vọng tưởng ta có thần thông
  • Vọng tưởng ta được huyền diệu
  • Vọng tưởng ta rất kỳ đặc

Vọng tưởng là ảo mộng. Vọng tưởng sinh động thì bản tâm bị che chướng. Loanh quanh mãi trong mê mờ cuồng vọng, tức chân thể thanh tịnh chìm lặng. Khác gì kẻ đi trong đêm đen không đèn đuốc. Người xưa nói: "Đất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự chiếu".

Phải dừng vọng tưởng.

7. Ma khẩu nghiệp:

Ma này là cuồng chướng. Ví dụ:

  • Đàm huyền thuyết diệu, giảng giáo nói tông.
  • Khoe mình đắc ngộ, chê người ngu mê.
  • Luận chỗ hay dở.
  • Nói điều phải quấy của người.
  • Ngâm ca thi phú, nói bừa những việc không đâu.
  • Bình nghị những việc hưng phế xưa nay của quốc gia, xưa thì cho người hiền mà ngu, nay thì bảo người hung mà giỏi.
  • Toàn những việc chẳng dính líu về mình mà cứ gân cổ tranh luận.
  • Lại vô cớ khen chê việc hơn thua của người.
  • Phô diễn các cảnh dục lạc, khiến người sanh đắm trước.
  • Bàn cãi những chuyện bất bình làm cho kẻ nghe phát phẫn.
  • Trước mắt thì công kênh đề cao. Sau lưng thì lại chê bai biếm nhẽ.

Đó là những lời nói lợi hại làm mất chánh định của người. Bởi loại cuồng chướng này, chẳng những làm cho chúng ta chẳng kiệm ngôn, dưỡng đức mà còn khiến cho tâm chúng ta tán động.

Đã biết nói nhiều loạn tâm tổn thần, phải dứt bặt, sống lại cho chính mình để tâm mình được an ổn, định lực của mình được kiên cố. Tóm lại:
Người hay nói - Loạn
Người nói nhiều - Tổn

8. Ma bệnh khổ:

Đây là khổ chướng. Thân có nhiều bệnh tật là do nghiệp nặng. Hoặc tự mình làm mất sự điều hòa, biến sanh các thứ bệnh.

Trước hết phải điều hòa tì vị, chỉ nên dùng những thức ăn thích hợp với cơ thể. Bớt ăn những vị quá đậm đà. Chớ ăn đồ sống và lạnh, khi đói chớ tụng đọc, khi no chớ làm việc nặng, sau khi ăn không nên ngủ liền. Về đêm chớ ăn no quá.

Tóm lại người ưa ăn những thứ nhừ nát, hoặc thích những thứ rang nấu. Khoái ăn đồ ướp ngũ vị, dùng nhiều những thứ không hợp với thân. Lại, ngồi thiền chỗ đất thấp, ngủ nghỉ chỗ gió nhiều. Lúc ra mồ hôi mà xuống nước. Đang dang nắng mà dùng đồ lạnh mát. Tắm rửa ngoài trời trống gió, ngủ nghỉ dưới chỗ nhiều sương. Cùng các trường hợp: no quá, đói quá, mừng quá, giận quá, nóng quá, lạnh quá. Chỗ mưa nhiều, sương nhiều, trong thương ngoài cảm tất cả tại lỗi không biết điều hòa, nên hay sinh các chứng thương nhọt, thân không làm sao an được.

Việc ăn uống ngủ nghỉ, chúng ta phải luôn luôn điều hợp thích đáng. Cái gì thái quá hay sanh bất cập.

9. Ma hôn trầm:

Tức là ngủ nghỉ quá nhiều.

Để thời gian ngủ nghỉ quá nhiều thì chân tâm chẳng sáng, tánh huệ lặng chìm, sẽ rơi vào chỗ mờ tối, núi đen hang quỷ.

Nguyên nhân nào mà ngủ nghỉ nhiều sanh chướng như thế? Đấy cũng bởi do ăn nhiều, dùng toàn chất vị đậm đà. Nói nhiều tổn hơi, thân nhọc, tỳ khốn tinh thần không minh mẫn, hơi trược hỗn loạn. Kẻ ngu si nhiều bực tức, kẻ lười nhác buông lung, chẳng nhớ việc sanh tử, chỉ thích vui giả tạm.

Phải tự tỉnh, tự tiến và khẩn thiết sám hối.

10. Thiên ma:

Loại ma này chẳng giống các ma kể trên. Đây là người tu hành chân chánh sắp được chứng Đạo. Tâm tình đã thông hợp trạm nhiên chẳng động, khiến bọn thiên ma và các quỉ thần thảy đều kinh hoảng, cung điện của chúng sụp đổ, cõi đại địa chấn động. Ma chúa mất hồn, ma dân té hoảng. Các loại ma mị, phần nhiều có ngũ thông, bọn chúng kéo đến não loạn hành nhân làm cho chẳng vào được vị thánh. Chúng biến các cảnh quái dị, và các cảnh dục làm rối loạn tâm định của hành giả. Nếu trong tâm hành giả vừa có mảy may niệm thủ xả, thì bọn kia nắm được tiện lợi. Hành giả sẽ bị hại, tự phát điên cuồng cho rằng mình thành Phật. Hiện đời không thoát khỏi vương pháp. Khi chết sa vào ngục vô gián.

Vì thế phải chánh niệm phân minh, trí huệ luôn sáng suốt, một lòng thường chẳng động. Mặc cho bọn ma kia tác uy, tác quái, ta như chẳng thấy, chẳng nghe. Dùng chánh định hàng ma như thế, tự nhiên loài ma mị tiêu diệt.

KẾT LUẬN:

Ma cũng tự tâm, không ma cũng tự tâm; ma, không ma gì cũng tự tâm; còn mống tâm dấy niệm là còn tâm ma. Từ trên mười thứ ma chướng, chẳng ngoài tâm ta mà có ra. Tâm ta nếu lặng yên chẳng động, ngàn thánh còn chẳng biết, huống loài ma mị làm gì biết được.

Phải luôn luôn phòng bị tâm mình cho cẩn mật, chớ để cho bọn ma mị bên ngoài có cơ hội thuận tiện. Công phu càng đắc lực, càng cẩn mật hơn, bởi tâm càng tịnh, ma lực càng mãnh liệt. Giai đoạn này chánh niệm phải tỏ rõ, trí huệ luôn chiếu suốt, tâm an trụ chẳng động. Đã vậy, thì mặc cho loài ma quái kia quấy phá, khác nào bọn chúng nắm bắt hư không.

"Tâm là gốc, ma không ma gì cũng tự tâm ta. Tâm động ma loạn, tâm bất động là chỗ không thể nghĩ bàn, cảnh giới này ngàn thánh xuất thế cũng chẳng biết huống nữa là ma".

Như vậy:
Muốn ngồi yên trị ma thì phải thế nào?
Chỉ có bất động. Tâm bất động thì đất nước yên lành, các bóng dáng ma mị dứt bặt. Người xưa nói: Một tâm chẳng sanh, muôn pháp đều bặt". Hoặc nói: Mê ngủ nếu không, các mộng tự trừ .

BONUS:

Có hai phương pháp sám hối:

Tác pháp sám hối - Cách này như trong các kinh Đại Thừa dạy: Sám hối bằng cách thống trách tự mình, ai khẩn trông cầu mười phương Tam Bảo xót thương chứng biết. Lại phát chí kiên quyết dứt bỏ những lỗi lầm đã gây. Đồng thời nương vào bi trí vô biên của mười phương Tam Bảo, nguyện giữ vững tâm niệm, sống theo lời dạy của các Hiền Thánh.

Tâm niệm sám hối - Sám hối tự tâm, tức là trong sinh hoạt hàng ngày. Vừa có một niệm khởi lên liền buông không theo. Luôn tự khám phá, khéo làm việc này cho được liên tục. Càng buông định ực càng mạnh. Huệ giác càng sáng, được thế oan nghiệp nhiều đời sẽ chuyển. Vọng nhiễm chấp trước truyền kiếp tiêu tan. Huệ-không bày hiện.

Trích Bài giảng của Thiền Sư Siêu Minh Viết
TT. Thích Nhật Quang Thuật

Người tu hành đến lúc không còn được cúng dường là tốt hay xấu???????


Thiền sư Pháp Dung tu rất tinh tấn trên núi Ngưu Đầu, cọp sói cảm đức từ bi của Ngài tụ hội về khá đông, chim muông cũng cảm lòng từ nên tha hoa trái đến cúng dường Ngài.

Sau khi được Tổ Đạo Tín khai ngộ, Ngài tiếp tục tu nhưng chim không còn tha hoa trái đến cúng dường Ngài nữa. Như vậy có phải Ngài kém phước không? Ngài tu lùi hay tu tiến?

Câu chuyện sau trả lời câu hỏi trên:

Thiền sư Đạo Ưng, đệ tử của Tổ Động Sơn Lương Giới, cất cái am Tam Phong; trải qua một tuần nhật, Thiền Sư không xuống trai đường (nhà ăn trong chùa). Tổ Động Sơn thấy lạ hỏi:

- Mấy ngày nay sao ngươi không đến thọ trai?

Thiền Sư thưa:

- Mỗi ngày có thiên thần cúng dường.

(Tu mà được chư thiên cúng dường là quá tuyệt vời phải không?)

Tổ Động Sơn bảo:

- Ta bảo ngươi là kẻ vẫn còn kiến giải. Ngươi rảnh thì chiều lại.

Chiều, Thiền Sư đến, Tổ Động Sơn gọi:

- Ưng am chủ!

Thiền Sư ứng:

- Dạ!

Tổ Động Sơn bảo:

- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác là cái gì?

Thiền Sư trở về am ngồi yên lặng lẽ, thiên thần tìm mãi không thấy Thiền Sư, trải qua ba ngày như thế mới thôi không cúng dường.

Bình thường người tu mà có kẻ quý kính cúng dường thì vui, không có người cúng dường thì buồn. Ví dụ quý vị phát nguyện nhập thất một tuần hoặc nửa tháng, bỗng một hôm có chư thiên đem thức ăn đến cúng dường, khoảng ba ngày, thì chắc quý vị mừng rỡ khoe khắp làng xóm. Nhưng Ngài Đạo Ưng được vậy mà bị Tổ Động Sơn chê là vẫn còn kiến giải. Vì sao? Vì tu mà còn dụng tâm khởi quán từ bi, muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Khởi tâm thiện mạnh như thế nên chư thiên biết mà kính trọng cúng dường. Nếu dứt hết niệm ác và niệm thiện cũng không còn, tâm không khởi niệm tức là vô niệm (tâm bất động) thì duyên đâu mà thấy tâm?

Trong nhà thiền, nếu tu đến mức đó thì cả Phật cũng không nhìn thấy huống chi là chư thiên/ quỷ thần. Tâm vô niệm mới là chỗ vượt mọi đối đãi hai bên. Nếu còn khởi quán là còn niệm thiện. Niệm thiện rất thuần khiết nên chư thiên thấy và chim muông cảm được, mới đến để cúng dường. Như vậy, tu đến chỗ tột cao, với mắt phàm thì thấy là hết phước vì không thấy tâm đang nghĩ gì, còn tu vừa vừa thì dễ cảm thông, thấy kết quả rõ ràng. Rõ ràng là tu như người xưa, tu đến nỗi được chim muông chư thiên cúng dường mà còn bị chê, huống chi là ngày nay tu chưa đến đâu lại bị xao lãng biếng nhác thì còn bị chê đến mức nào nữa?

Đối với những phép lạ, những việc như trên, người trong nhà Thiền không lấy gì làm quan trọng. Thiền sư Nam Tuyền khởi niệm đi thăm trang chủ. Sáng hôm sau Ngài xuống trang sở thì thấy trang chủ đã chuẩn bị đón tiếp. Ngài hỏi:

- Lão Tăng ra vào thường không cho người biết, sao trang chủ biết mà chuẩn bị trước vậy?

Trang chủ thưa:

- Đêm qua thổ địa mách ngày nay Hòa Thượng đến.

Ngài bảo:

- Lão sư tu hành vô lực (bị động tâm) nên bị quỷ thần nhìn thấy.

Thường chúng ta đến nơi nào mà không cho nơi ấy hay nhưng người ta biết trước sửa soạn đón tiếp thì vui mừng chấp nhận, vì được quỷ thần ủng hộ. Song đối với người tu cao như Ngài Nam Tuyền thì hối tiếc là mình dụng tâm tu để cho quỷ thần nhìn thấy. Tu để cho quỷ thần thấy tâm là còn thấp. Giá trị của sự tu không ở chỗ huyền hoặc quỷ thần, thế mà người đời lại đặt nặng vào những huyền hoặc, cho là cao quý nên bị kẹt ở đó.

Nguồn: Trích sách “Những Cánh Hoa Đàm.” Tác giả: Thiền sư Thích Thanh Từ. Nhà xuất bản: Hội Thiền Học Việt Nam. Năm 2003. Trang 128-132.

Tỳ kheo của Đức Phật


Tỳ kheo kham nhẫn lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của muỗi, ruồi, gió, mặt trời và các loài bò sát, các ác ngữ, các lời nói chửi mắng, vị ấy sống quen kham nhẫn với những cảm thọ về thân, thống khổ, đau nhói, đau đớn, kịch liệt, bất khoái, không thích ý, đau đớn đến chết, được gột sạch về uế nhiễm tham sân si. VỊ ẤY XỨNG ĐÁNG ĐƯỢC CÚNG DƯỜNG, CUNG KÍNH, TÔN TRỌNG, CHẤP TAY, LÀ VÔ THƯỢNG PHƯỚC ĐIỀN TRÊN ĐỜI. (Trích Kinh Điều Ngự Địa – Dantabhumi Sutra)

Các tỳ kheo, đại đức, thượng tọa, hòa thượng, tự ngẫm xem mình đã làm được những điều cơ bản của một tỳ kheo ở trên chưa mà DÁM nhận cúng dường, DÁM nhận lễ lạy của bá tánh????????????

Bài liên quan: Thương cho Phật giáo Bắc tông!!!!  

CHÙA là gì?

CHÙA nghĩa là IM LẶNG và LẮNG NGHE. Bất cứ nơi nào mà tôi có thể im lặng và lắng nghe thì đó là chùa của tôi.

Ngày nay người ta đến chùa và nói quá nhiều. Đó là lý do mà tôi hầu như chả bao giờ đi chùa.

Định nghĩa này có thể áp dụng hoàn hảo cho cả NHÀ THỜ của Thiên chúa giáo và đền đài của các tôn giáo khác.

Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

Tướng số cố định hay thay đổi????????????


Tướng và số không cố định, nó tùy theo tâm niệm và việc làm của con người mà đổi thay. Đừng vì tướng xấu hay tử vi xấu mà bi quan buồn khổ. Con người sanh ra do có phước mà hiện ra tướng tốt. Phật do công đức mà thành tựu 32 tướng tốt. Người do tạo nghiệp bất thiện ít phước mà có tướng xấu. Tuy nhiên tướng xấu hay tốt còn tùy theo hiện nghiệp (nghiệp trong kiếp sống hiện tại) mà có đổi thay.

Có ông thầy tướng số giỏi, bói là đúng. Gần nhà ông có anh nông dân nghèo mà hiền lành; ngày nào đi làm ruộng cũng đi ngang nhà thầy tướng số. Một hôm trời mưa, anh nông dân ghé nhà thầy tướng số trốn mưa. Thầy nhìn kỹ anh rồi lắc đầu nói: Tướng chú nghèo ba đời!

Nghe nói anh nông dân không lấy gì làm trọng. Thực tế anh nghèo, bây giờ thầy bói nói anh nghèo, chuyện đó quá thường. Anh chỉ cười không nói gì, hết mưa anh ra về.

Những ngày sau, anh cũng đi làm bình thường. Bỗng một hôm trên đường đi, anh thấy một sợi dây chuyền vàng đứt nằm bên đường. Anh nghĩ của ai mới làm rớt, nếu mình không lượm, người khác cũng lượm, nên anh lượm sợi dây chuyền lên và ngồi chờ tại đó để trả lại cho chủ của nó. Anh ngồi từ sáng cho đến chiều tối, bỏ bữa cơm trưa. Trời sẩm tối, anh thấy có một cô gái vừa đi vừa khóc, anh nghi bèn kêu lại hỏi:

- Cô có việc gì buồn mà phải khóc vậy?

Cô nói:

- Thưa chú, tôi được chồng đi hỏi có cho một sợi dây chuyền, tôi đeo đi trên con đường này đến thăm bà con, nó đứt hồi nào tôi không hay. Tới nơi biết nó mất nên tôi đi kiếm, nếu kiếm không được, chắc tôi tự tử vì sợ chồng chưa cưới nghi tôi cho ai, không thể giảy bày được.

Nghe xong, anh nông dân đưa sợi dây chuyền ra hỏi:

- Có phải sợi dây chuyền này của cô không?

Cô gái mừng quá nói:

- Đây chính là sợi dây chuyền của tôi bị rớt.

Anh nông phu nói:

- Nếu của cô, tôi xin trả lại cho cô. Tôi lượm khi sáng mà không biết chủ nó là ai để trả.

Nhận lại sợi dây chuyền, cô gái không tự tử. Anh nông dân trả vàng cho cô, không thấy đó là việc quan trọng.

Sau một thời gian, anh đi làm ruộng ngang qua nhà thầy tướng số. Hôm đó trời mưa, anh cũng ghé nhà thầy tướng số trốn mưa. Ông thấy anh, ngạc nhiên nói:

- Tướng chú sắp làm quan.

Anh nông dân nói:

- Cũng bác; hôm trước, bác nói tôi mạt ba đời, nay bác lại nói tôi phát quan. Tai sao cũng là tôi, cũng là bác, trước bác nói vậy, sau bác nói khác?

Thầy tướng số nói:

- Tôi thấy có điều gì mới lạ. Chú hãy nói thật tôi nghe, từ ngày chú ghé nhà tôi đến giờ, chú có làm điều gì phước đức quan trọng không?

Anh nông dân chất phác, ngồi kiểm lại việc làm của mình, anh không thấy anh làm việc gì quan trọng cả. Song anh chợ nhớ đến việc anh đi ruộng, lượm sợi dây chuyền và trả lại cho cô gái. Anh kể cho thầy tướng số nghe. Thầy tướng số nói:

- Đó là phước, chú sắp làm quan.

Đúng như lời thầy tướng số nói, ba tháng sau trong làng chọn người hiền đức đưa lên làm xã trưởng, thì anh nông dân là người được dân tín nhiệm bầu lên.

Như vậy chúng ta thấy tướng số không có cố định. Vì vậy trong sách tướng số có bài kệ:

Hữu tâm vô tướng
Tướng tự tâm sanh
Hữu tướng vô tâm
Tướng tùng tâm diệt.

Có tâm tốt mà không được tướng tốt thì nhờ tâm tốt sẽ phát ra tướng tốt. Có tướng tốt mà tâm không tốt thì tướng tốt dần dần cũng mất. Như vậy, tướng không cố định mà tùy theo hành động, tùy theo tâm niệm của con người mà thay đổi. Nếu tướng xấu mà biết làm các điều lành việc tốt thì dần dần tướng xấu biến thành tốt. Nếu có tướng tốt, ỷ mình tốt rồi cao ngạo kiêu hãnh, dần dần cũng thành xấu.

Mấy thầy coi tướng, coi chỉ tay hay nói thế này: tay ông như vậy, tướng ông như vậy …….. nhưng sáu tháng sau coi lại. Người đi coi tưởng thầy bói muốn làm tiền, hẹn coi lại để ổng có tiền. Trong vòng sáu tháng mà làm phước nhiều hay tội nhiều thì tướng thay đổi. Tướng số không cố định, biến chuyển tùy theo hành động tốt xấu của con người. Tương đối nó chỉ đúng phần nào trong trường hợp người ta không làm điều gì đặc biệt; nếu người đó có làm việc đặc biệt hoặc thiện hoặc ác thì tướng thay đổi hoặc tốt hơn hoặc xấu hơn.

Đó là nói về tướng; bây giờ nói về số. Giả sử có người lấy tử vi hồi mười lăm, mười bảy tuổi. Trong tử vi nói người đó sau này có ba đứa con và hai đời vợ. Nhưng đến hai nươi tuổi người đó đi tu. Người đó tu suốt đời thì không có ba đứa con và hai đời vợ. Như vậy là tử vi nói không đúng.

Người thay đổi việc làm thì số cũng thay đổi. Tướng và số hiện theo nghiệp của con người. Nếu nghiệp chuyển thì tướng số cũng theo nghiệp mà chuyển, làm ác thì tướng số tốt tự mất, làm lành thì tướng số xấu tự mất. Nếu muốn chuyển nghiệp ác thì ngay đây chuyển nghiệp ác thành thiện. Giả sử người có tướng xấu mà làm thiện thì đâu có thiệt thòi. Nếu tướng xấu mà làm thiện thì tướng tốt sẽ hiện và nếu tướng tốt mà làm thiện thì tướng càng tốt thêm. Như vậy dù tướng số tốt hay xấu, làm thiện là hơn cả. Phật dạy: Nghiệp thiện là đưa con người đến chỗ tốt, hãy lo chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện. không sợ tướng số xấu mà sợ mình không làm thiện, không có tâm tốt. Tâm tốt, làm lành thì mọi điều xấu đều chuyển thành tốt cả.

Nguồn: Trích sách “Những Cánh Hoa Đàm.” Tác giả: Thiền sư Thích Thanh Từ. Nhà xuất bản: Hội Thiền Học Việt Nam. Năm 2003. Trang 111-115.

“Đem tâm của ngươi ra ta an cho.”


Khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma nhận Huệ Khả làm đệ tử rồi thì không dạy gì hết. Một hôm Ngài Huệ Khả khổ quá mới thưa:

“Bạch Hòa Thượng, tâm con bất an, xin Hòa Thượng dạy con phương pháp an tâm.”

Giống hệt như chúng ta, tâm Ngài Huệ Khả cứ xao xuyến bồn chồn mãi nên Ngài xin Tổ dạy cho phương pháp để định tâm. Tổ nhìn sững vào mặt Huệ Khả bảo:

“Đem tâm ra ta an cho.”

Theo cái thấy của chúng ta thì Tổ thật vô lý, đệ tử xin dạy phương pháp tu mà Ngài không dạy gì cả, bảo: “đem tâm ra ta an cho.” Nghe câu này chúng ta thấy lúng túng. Nhưng Huệ Khả là người xuất cách, Ngài bèn nhìn lại cái nghĩ tưởng lăng xăng mà lâu nay Ngài cho là tâm, không thấy nó đâu cả. Ngài thưa:

“Bạch Hòa Thượng, con tìm tâm không được.”

Tổ nói rất nhẹ:

“Ta đã an tâm cho ngươi rồi.”

Từ đó, Huệ Khả biết đường vào cửa thiền.

Lâu nay chúng ta cho rằng cái nghĩ tốt, nghĩ xấu, nghĩ phải, nghĩ quấy ….là tâm của mình. Trăm người như một đều chấp như thế. Bởi chấp niệm suy nghĩ là tâm mình nên cứ khởi nghĩ lung tung, vì nghĩ tứ tung nên bất an. Bây giờ phải tu theo pháp nào để đừng khởi nghĩ và tâm được an? Ơ đây Tổ không dạy pháp gì hết, bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Tức là đem niệm nghĩ suy mà ông cho là tâm đó ra ta an cho. Ngài Huệ Khả sực nhìn lại cái mà Ngài cho là tâm xem nó ra làm sao? Tìm lại thì nó mất tiêu. Ngay đó thì tâm Ngài đã an. Nên Tổ nói: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.” Khi thấy niệm nghĩ suy là những niệm giả dối, không tiếp tục nghĩ suy nghĩ nữa thì tâm an chứ gì! Không thêm một pháp nào nữa hết.

Mình đang suy tính chuyện chuyện nọ, hãy nhìn lại xem nó ra sao? Khi nhìn thấy nó thì nó tự lặng không còn nữa. Vậy “niệm nghĩ suy” và “cái nhìn” niệm nghĩ suy, hai cái có khác nhau không? Niệm nghĩ suy thì lăng xăng lộn xộn, chợt khởi chợt mất; còn “cái nhìn” niệm nghĩ suy thì nó lặng lẽ mà sáng suốt, không động. Khi niệm nghĩ suy lăng xăng lộn xộn đã mất, chỉ còn lại “cái nhìn” lặng lẽ thì tâm không an là gì? Rất đơn giản. Khi Ngài Huệ Khả nghe tới đó, tâm bừng sáng lên, không nghi ngờ. Còn chúng ta nghe qua thấy mù tịt. Cái nghĩ tưởng lăng xăng lộn xộn đó là cái hư dối không thật, gọi nó là vọng tâm hay vọng tưởng.

Từ lâu chúng ta lầm cho vọng tưởng là mình; bây giờ, mỗi khi nó dấy khởi, nhìn nó biết là hư dối, không theo nó, đó là tu. Nếu khi vọng tưởng lăng xăng khởi, nhìn nó không lặng thì tìm xem nó xuất phát từ đâu? Tìm không thấy chỗ xuất phát của nó, rõ ràng vọng tưởng không có nguồn gốc, chợt hiện rồi mất. Vậy không có pháp an tâm mà tâm được an.

Từ lâu mọi người ai cũng lầm nhận cái suy tư nghĩ tưởng là ta (ngã.) Vậy ta có khi nào vắng không? Ta lúc nào cũng hiện hữu không bao giờ vắng mặt, còn cái suy tư nghĩ tưởng chợt hiện chợt mất sao gọi là ta được. Vậy lúc không nghĩ tưởng thì ta ở đâu? Biết rõ cái suy tư nghĩ tưởng là hư dối, không thật, đó là trí tuệ. Tuy vọng tưởng chưa hết nhưng trí tuệ đã phát sáng thì từ từ sẽ làm chủ được nó. Bởi lâu nay chúng ta lầm nhận nó là ta nên chạy ngược xuôi theo nó. Bây giờ biết nó là hư giả, không theo, đó là biết học đạo. Khi chưa học đạo, chúng ta tưởng đạo xa lắm, tưởng đạo là cái gì huyền bí phi thường nên có nhiều người vô rừng lên núi tìm đạo. Nhưng đạo chính là tâm chân thật có sẳn nơi mỗi người. Vậy có được mấy người biết được tâm chân thật đó????? Thế mà mở miệng ra xưng là ta là tôi nhưng không biết cái ta chân thật là cái gì?

Đạo Phật không cho phép chúng ta ngồi suy tính chuyện bên ngoài mà không tự biết mình. Nếu không biết cái gì là mình, cái gì không phải là mình thì người đó chưa phải là người trí. Người trí biết được mình rồi mới chinh phục những cái không phải là mình, nên không còn lệ thuộc nó nữa và không bị nó chi phối làm cho khổ đau.

Biết được mình mới là điều chủ yếu của sự tu hành. Nếu chưa biết được mình mà biết nhiều chuyện bên ngoài cũng chỉ là trò đùa, cũng vẫn trầm luân trong vòng luân hồi, không có ngày dừng.

Nguồn: Trích sách “Những Cánh Hoa Đàm.” Tác giả: Thiền sư Thích Thanh Từ. Nhà xuất bản: Hội Thiền Học Việt Nam. Năm 2003. Trang 71-75.

Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

“Phải biết tôn trọng chân lý”


Phật dạy: “Phải biết tôn trọng chân lý.” Tôn trọng chân lý là cùng thấy một sự việc, mà mỗi người có quyền thấy biết theo quan niệm của mình, không bắt buộc người khác thấy như mình thấy. Đa số người đời mắc phải bệnh chấp: “Cái thấy của tôi là đúng, là chân lý, ai thấy khác tôi là người đó thấy sai.” Thế nên từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội, người ta cãi nhau đánh nhau không ngừng nghỉ, bởi chấp cái thấy của mình là chân lý, rồi bắt kẻ khác phải thấy như mình thấy. Mình thấy như thế nào thì nói thấy như thế ấy, đó là cái thấy của mình. Nếu người kia thấy khác cũng là cái thấy của người kia. Mỗi người có quyền thấy theo nhãn quan của mình, không ai có quyền bắt thấy như thế này là đúng, thấy khác đi là sai. Như vậy là biết tôn trọng chân lý.

Nếu không tôn trọng chân lý thì sẽ cãi nhau hoài. Tất cả khổ đau của kiếp người  không phải chỉ đói cơm rách áo mới khổ. Có nhiều người giàu sang vương giả, sống với ai cũng bất đồng quan niệm, gây xung đột đánh giết lẫn nhau, đó là tại không biết tôn trọng chân lý. Ai cũng muốn bắt người khác nhìn theo cái nhìn của mình nhưng làm sao thấy giống nhau được? Một việc hết sức nhỏ và gần như việc ăn uống. Cái lưỡi của người này thì thích món này, cái lưỡi của người kia thì thích món kia, kẻ ưa ăn mặn người ưa ăn nhạt…. Nếu mình thích món nào cho món đó là ngon và bắt người khác ăn theo mình, làm như vậy không được, vì người khác cũng có quyền thích món khác. Nếu mọi người ai cũng bắt kẻ khác theo ý mình trong khi người ta không thích, thì sống có đau khổ không? Thế nên hiểu đến nơi mới thấy lời Phật dạy chí lí vô cùng.

Những cái thấy tốt xấu khác nhau đó tùy theo nghiệp duyên của mỗi người. Nếu thấy rõ như vậy thì không có chuyện gì xảy ra cả; còn ai cũng cho cái thấy của mình là chân lý, người khác thấy không giống mình là sai là bậy, thì bao nhiêu chuyện tranh cãi rắc rối xảy ra.

Trích sách “Những cách hoa đàm.” Tác giả: Thiền sư Thích Thanh Từ. Nhà xuất bản:Hội Thiền học Việt Nam. Năm 2003. Trang 64-67.

Hóa ra là thế!!! Bấy lâu nay, tôi là người không biết tôn trọng chân lý à???????????? Bây giờ mới hiểu được câu nói của Ngài Tịnh Không: “Con người chúng ta có một ý niệm sai lầm rất nghiêm trọng, chính là luôn thấy người khác sai, mình thì đúng. Chỉ cần có ý niệm này tồn tại thì xã hội vĩnh viễn không có an định, thế giới không có hòa bình.”





Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2012

Tôi ĐƯỢC “ném đá”


Tháng 5 này (nghĩa là tháng 5/2012) có một đoàn Phật tử miền Nam hành hương qua xứ Phật; trong đó có một người là bố của người quen của tôi ở Sài Gòn. Đoàn này đi hành hương trong 8 ngày với chi phí là 29 triệu. Người dẫn đoàn (thuộc công ty du lịch) bảo rằng giá này đã là rẻ lắm rồi, không thể nào rẻ hơn được đâu.

Trong đoàn có một nhà sư, tu ở một chùa ở Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Khi thấy tôi đi một mình và ở lâu dài ở Bồ Đề Đạo Tràng nên xin địa chỉ trang blog này để về đọc và tìm hiểu cách đi tự túc rẻ hơn nhiều.

Khi nhà sư vào blog đọc mấy bài viết vừa rồi của tôi về Phật giáo xem ở đây , lòng sân si nỗi dậy, điện thoại cho người dẫn đoàn và người này điện thoại cho một sư cô ở đây. Người dẫn đoàn khinh khi tôi nên không thèm đọc bài trong blog, chỉ nghe nhà sư nói và nỗi sân lên; sư cô kia cũng chưa hề đọc bài nhưng lại tin những gì người đẫn đoàn nói nên cũng nổi lên sự nghi ngờ. Tóm lại bây giờ trong mắt họ, tôi là gián điệp do cộng sản gài vào nên mới có “đủ khả năng” và dũng khí để viết những bài như thế!!!! Đối với họ tôi đang tìm cách phá tăng đoàn Việt Nam nên tôi chắc chắn là cộng sản. Sư cô bảo “may” là nhờ người dẫn đoàn “cung cấp” thông tin này mà bây giờ biết cách “đối xử” với tôi.

Theo lời sư cô thì người dẫn đoàn là một người có tâm đạo lớn lắm và biết nhiều Phật Pháp lắm; giảng dạy về Phật Pháp ở các đại học ở Việt Nam kia; còn sư cô này cũng là một người rất được tăng ni ở đây yêu chuộng vì sự năng nổ hoạt động của mình tại Bồ Đề Đạo Tràng.

Khi người dẫn đoàn điện thoại cho sư cô để “kể tội” / “vạch mặt” tôi thì lúc ấy tôi cũng có mặt ở đó. Sư cô bảo tôi cũng có mặt nên muốn đưa điện thoại cho tôi nói chuyện trực tiếp thì anh ta bảo rằng anh ta không muốn nói chuyện trực tiếp bởi vì tôi không đáng cho anh ta nói chuyện và bảo rằng tại tôi ở gần sư cô nên tốt hơn hết sư cô nên nói chuyện để hướng dẫn dạy dỗ tôi. Hóa ra là thế!!!! Hóa ra người có tâm đạo là phải tự cao à? Anh ta bảo tôi không xứng đáng để cho anh ta “dạy dỗ”; vậy mà bảo sư cô kia “dạy” tôi. Vậy trong mắt anh ta, sư cô thấp kém hơn anh ta. Ồ thì ra thế!!! Khi tôi bảo sư cô điều này, sư cô gạt phăng đi và bảo anh ta không có ý đó.

Trước đó tôi đã bảo là để phá Pháp của Phật thì chỉ có con Phật, tu sĩ Đạo Phật và người có “đạo tâm” mới có khả năng phá nổi Pháp của Ngài cơ mà. Cái mà làm cho Đức Phật khác với Ma Vương là gì? Đâu phải Ma Vương là người không biết tu. Họ cũng tu, cũng đắc quả đắc đạo lắm đó, chứ đừng tưởng là họ không tu, suốt ngày chỉ lo đi “phá phách” Phật đâu nhé!!!! Đâu phải chỉ có con Phật mới có đạo tâm mà Ma Vương cũng có đạo tâm vậy. Đâu phải chỉ có con Phật mới thiền định được mà Ma Vương còn tinh tấn hơn trong việc thiền định nữa kia. Đâu phải chỉ có con Phật mới biết đi làm từ thiện, giúp đỡ người mà Ma Vương cũng làm được kia. Ma Vương cũng đạt trình độ tu tương đương Phật kia mà. Nhưng cái gì là mấu chốt quan trọng để phân biệt đâu là Ma Vương và đâu là Phật vậy các bạn???????????????? Theo tôi, điểm mấu chốt khác biệt và cũng là cách để mọi người phân biệt đâu là Ma Vương đâu là Phật không nằm ở vẻ bề ngoài, không nằm ở những công việc mà họ làm mà chính là LÒNG TỪ BI (compassion) mà Đức Phật có nhưng Ma Vương thì không (vì không có đủ lòng từ bi mà bất cứ người tu tập nào cũng có thể trở thành Ma Vương thay vì thành Phật!) Mà Đức Phật thì chỉ có một, ma quỷ lại đầy rẫy quanh ta. Vậy cứ dùng “lòng từ bi” mà làm “kính chiếu yêu” soi những người xung quanh thì bạn sẽ nhận ra ai là ma ai là Phật ngay!!! Có khi soi xong bạn lại đi tự tử mất vì thấy sao xung quanh mình toàn là ma chả thấy Phật đâu cả!!!!!!!!!!!

Và cũng dùng kính chiếu yêu mà đi soi hàng triệu người đến với Bồ Đề Đạo Tràng, bạn cũng có thể phân biệt đâu là người tu thực sự, đâu là người chỉ thấy hoặc có vẻ tu nhưng lại không tu ở Bồ Đề Đạo Tràng. Cô gái Thái Lan ở cạnh phòng có bảo tôi rằng cô biết hết những gì diễn ra quanh Tháp (Mahabodhi Temple) và cô bảo có một chùa Thái ở xa trung tâm do một sư cô Thái trụ trì và cô này đã là một A Lan Hán (làm sao biết được ai đã đắc A Lan Hán, tôi bó tay; tôi nghĩ chắc phải tu đến mức nào đó mới nhận ra được mà tôi lại có tu đâu toàn là đi “soi mói” người khác nên chắc chắn chả biết rồi!) bảo rằng: khi cô thiền dưới cội bồ đề, Đức Phật bảo cô rằng: người đến và người ở đây đông nhưng người thấy Như Lai rất ít! Tôi hỏi ít như thế nào; cô ấy bảo nghĩa là chỉ có 10 trong số 1 triệu người mới thấy được Như Lai. Phật nói thế thì cũng lạ thật các bạn nhỉ? Tại sao lạ? Tôi đảm bảo số người đến đây và cố làm việc thiện hoặc việc tốt nhiều vô số; nhiều đến nỗi trước đây tôi còn định viết hẳn một bài rằng ở xứ Phật thật dễ chịu, con người đối xử với nhau thật tử tế!!! Nếu thế thì làm sao chỉ có 10/1 triệu người thấy được Như Lai????????

Điều đó nghĩa là gì vậy các bạn? Ai biết giải thích giùm cái!!!!

Một sư cô bảo tôi rằng nghiệp của dân Việt Nam là không có minh sư và tu sai đường; nên không nên viết bài can thiệp vào nghiệp của họ bởi vì sẽ làm cho người khác nổi giận đặc biệt là tăng đoàn. Như thế tôi sẽ bị nạn lớn. Họ bảo Phật dạy rằng: Chúng sanh đi theo nghiệp. Nên nghiệp ai nấy trả. Dân Việt Nam nghiệp lớn nên đã là người Việt thì phải chịu không có minh sư và chịu tu sai đường. Nếu muốn giải nghiệp thì phải lo tu từ kiếp này và kiếp sau tái sanh nơi khác, nơi dễ tìm minh sư (đã tu sai đường rồi thì chả phải càng tu càng sai sao????????? Chả hiểu ý sư cô muốn nói gì?)

Tôi lại có thắc mắc: Nếu Phật cũng nghĩ thế; nếu Phật để chúng sanh đi theo nghiệp thì vì sao Ngài, sau khi đắc đạo, không nhập Niết Bàn luôn đi mà lại đi thuyết pháp đến hơn 40 năm và “chọc giận” Ma Vương đến nỗi Ma Vương phải thề rằng: “Thời Thịnh Pháp, tôi không làm gì được ông nhưng thời Mạt Pháp, tôi sẽ cho con cháu tôi lên phá Pháp của ông.” Tóm lại thắc mắc của tôi là vì sao Ngài không để chúng ta đi theo nghiệp mà lại tìm cách truyền giảng đạo Pháp cho chúng ta ?????????????????????????????????????????????????

Tóm lại nhờ được “ném đá” mà tôi có bài viết này và “lòi” ra hai cái thắc mắc trên!!! “Ném đá” muôn năm!!!!!!!!!!! Các bạn hãy làm ơn “ném đá” tôi nhiều nhiều nhé!!!!!!!!!!!!! Không ai “ném đá” thì tôi chả viết bài được đâu đấy!!!!!!!!

“Trả thù” giùm cho Đức Phật  

Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

Chết mẹ Phật tử Việt Nam!!!!!!!!!!!!!


Ở Bồ Đề Đạo Tràng, lại nghe mọi người nói chuyện với nhau, tôi giật mình và không thể nào không thốt ra: “Chết mẹ Phật Tử Việt Nam.” (chẳng những Phật tử mà cả tăng ni Việt Nam cũng không thoát. Cái này là nói nghiêm túc đấy!!!!!!!!!)

Chỉ giận là sao các vị vô minh đến nhường ấy; làm gì cũng phải suy nghĩ kỹ; vậy mà lại nhận Quán Đảnh của các Lạt Ma Tây Tạng bừa bãi như thế!!!

Tôi mà viết xong bài này thì chắc tôi cũng chết toi chứ không giỡn chơi đâu; nhưng phải viết để mọi người cảnh giác.

Nói một chút về Phật giáo ở Tây Tạng (nghe người khác nói rồi nói lại chứ tôi chả biết gì đâu nhé!!!!)

Vào thế kỷ thứ 6-7 (chả biết nhớ đúng không) khi Hồi Giáo quyết tâm tiêu diệt Phật Giáo; sư sãi ở đại học Nalanda bị giết như thể Pol Pot giết người dân Khmer ấy (chả hiểu sao bọn Hồi Giáo thù hận Phật giáo đến thế!!!! Mà mấy ông tu sĩ Phật Giáo cũng có đụng chạm gì đến họ đâu mà họ căm đến thế nhỉ!!!!!!!!!!!)

Phật Giáo rõ ràng bị tiệt rồi thì Ngài Liên Hoa Sanh mới chạy sang Tây Tạng và truyền bá ở đó. Tây Tạng gốc là đạo Bon (thờ rất nhiều thần linh như đạo Hindu ấy) nhưng khi bắt đầu chuyển sang đạo Phật thì vua Tây Tạng hạ lệnh đuổi những người đạo Bon đi. Họ phải chạy vào rừng sâu, núi thẳm, chạy sang nước ngoài để sanh tồn (cái nghiệp của dân Tây Tạng ngày nay cũng thế!) và vô cùng căm thù Đạo Phật. Sự sân hận của họ lớn đến nỗi họ đầu thai trở lại thành các ………………… Lạt Ma Tây Tạng hoặc có người bảo là họ đầu thai thành chính phủ của các quốc gia đang đàn áp Tây Tạng để trả mối thù …….. truyền kiếp đấy!!! (Viết đến đâu là nổi da gà đến đó nè!!!!)

Một trong số các ác thần là một vị “đeo đuổi” Ngài Đạt Lai Lạt Ma mấy trăm năm nay rồi!!! Cứ Ngài Đạt Lai Lạt Ma mà tái sanh thì ông ta cũng tái sanh thành Lạt Ma Tây Tạng và luôn rình cơ hội để giết Ngài Đạt Lai Lạt Ma. Ông ta mấy trăm năm nay đều làm thế!!!!!

Trong buổi lễ Quán Đảnh vào tháng 12/2011 tại Bồ Đề Đạo Tràng, trước mặt gần 1 triệu người khắp nơi trên thế giới về dự và nhận Quán Đảnh của Ngài Đạt Lai Lạt Ma, Ngài đã tuyên bố tên của vị Lạt Ma này (tôi quên tên rồi) và bảo với toàn thể rằng: Nếu ai mà nhận Quán Đảnh của Vị ấy thì không thể nhận Quán Đảnh của Ngài.

Ngài cảnh báo rằng nhiều người nhận Quán Đảnh của vị ấy xong; giai đoạn đầu thì rất khá; người thường thì làm ăn buôn may bán đắt; Lạt Ma thì nhận được cúng dường vô số; đời sống ai cũng sung túc. Nhưng sau đó thì………….thê thảm vô cùng, đặc biệt là những người muốn bỏ Vị ấy mà theo Vị khác; thê thảm đến nỗi ngoài việc tai nạn liên miên có vị còn tự giết bản thân.

Ngài Đạt Lai Lạt Ma cảnh cáo điều ấy trước toàn thể người tham dự.

Ác ôn ở chỗ, vừa rồi vị Lạt Ma ấy (gốc là một ác thần) gặp người Việt Nam nào đó ở Bhutan và được mời về làm Quán Đảnh ở Hà Nội; sau đó còn vào làm Quán Đảnh ở cả miền Nam. Đau xót chưa!!!!!!!!!!! Tôi chắc chắn những Phật tử càng mộ đạo thì càng quyết tâm đến dự buổi Quán Đảnh ấy!!!!!!!!!! Hệ quả đến với những người nhận Quán Đảnh ấy như thế nào thì tôi không biết nhưng những vị Lạt Ma Tây Tạng mà đã nhận thì ………. thê thảm vô cùng. Tôi mà viết xong bài cảnh cáo này thì chắc cũng không yên đâu!!!!!!!!

Không hiểu sao mọi người lại vô minh đến nỗi dễ dàng nhận Quán Đảnh như thế nhỉ? Nổi tiếng như Ngài Đạt Lai Lạt Ma mà khi Ngài tổ chức lễ Quán Đảnh ở Bồ Đề Đạo Tràng năm ngoái, có người chỉ đến dự mà không nhận Quán Đảnh. Người ta chưa biết như thế nào nên đã không nhận, còn mình thì lại thích hùa để cùng nhau đi vào con đường……………...

Nên nhớ Trung Quốc dù ủng hộ Vị Lạt Ma (ác thần) ấy nhưng chưa bao giờ mời Vị ấy về Trung Quốc để tổ chức Quán Đảnh các bạn nhé!!!!!!!!!!!!

Lại quay về Phật Giáo Tây Tạng. Khi Ngài Liên Hoa Sanh sang truyền đạo Phật ở Tây Tạng, Đạo Phật ở Ấn độ đã vào giai đoạn tận diệt nên rất nhiều truyền thống của đạo Hindu được đem vào để bù vào những chỗ hổng và đúng là Phật giáo Tây Tạng đã vực dậy Đạo Phật ở Ấn độ. (Nghe nói giai đoạn Ngài Liên Hoa Sanh sang Tây Tạng truyền đạo cũng là giai đoạn Ngài Huyền Trang đem Kinh về Trung Quốc; trong khi đó đạo Phật, trước đó 1 ngàn năm đã truyền hết sang Sri Lanka- Hèn chi những người Nam Tông vô cùng tự hào về Tông giáo của mình; luôn bảo mình là đạo Phật nguyên thủy hay là đạo Phật chính tông.)

Phật Giáo Tây Tạng là Mật Tông và sử dụng chú rất nhiều. Họ trì chú hằng ngày và trì rất nhiều chú khác nhau (vậy mà không hiểu sao họ vẫn mất nước??????????????????)

Trước tình trạng hỗn loạn của các vị Lạt Ma, Ngài Đạt Lai Lạt Ma phải viết bài đính chính và cảnh cáo rằng: Do bị mất nước, nhiều Lạt Ma bỏ trốn ra nước ngoài. Trên bước đường lưu vong, sợ bị thất truyền tông phái nên nhiều Lạt Ma đã nhận đệ tử một cách bừa bãi, không chọn lọc kỹ như trước đây. Hệ quả là ngày nay có vô số Lạt Ma lôm côm. Ngài Đạt Lai Lạt Ma cảnh báo rằng số lượng người đi tu nên ít lại và các vị Lạt Ma cần chọn lọc học trò kỹ càng để đảm bảo chất lượng; những người không thích hợp nên ra đời mà sinh sống, chớ có lệ thuộc vào chùa chiền mà làm mất đi sự oai nghiêm của Phật Pháp.

Ngài Karmapa cũng bảo: bây giờ nhiều Lạt Ma “so kè” vai vế với nhau qua nhãn hiệu xe hơi mà họ đi. Cứ lên làm Lạt Ma là mua xe hơi. Ai cũng đi xe hơi nên tạo thêm ô nhiễm cho môi trường.

Thương các vị Lạt Ma và dân Tây Tạng bị mất nước, cũng như hâm mộ Phật Giáo Mật Tông của Tây tạng mà nhiều người Châu Âu hay Châu Mỹ cúng dường cho các Lạt Ma rất nhiều tiền. Vậy là các vị sống……………không hề khổ. Vậy không hiểu sao người ta cứ đổ đến đây và bảo: Ôi sao các vị ấy khổ thế!!!!

Năm 2010, tôi ở Dharamsala, nơi ở của Ngài Đạt Lai Lạt Ma và chính phủ Tây Tạng lưu vong. Một tên Ấn độ trẻ tuổi kể lể cho tôi về bức xúc của nó và người Ấn độ tại đây như sau: Bọn họ thích gái Tây Tạng trắng trẻo, xinh đẹp nhưng cứ cô nào đẹp là cô ấy……….. thuộc về sở hữu của một…………….. Lạt Ma. Mà Lạt Ma lại nhiều tiền hơn họ nên họ không cua gái được. Vậy là họ tức các Lạt Ma lắm lắm. Họ bảo do họ nể và sợ uy Ngài Đạt Lai Lạt Ma nên họ không dám làm gì người Tây Tạng. Khi nào Ngài Đạt Lai Lạt Ma tịch rồi, thì dân Tây Tạng sẽ biết tay.

Thằng Ấn độ ấy còn kể cho tôi nghe rằng các Lạt Ma Tây Tạng quan hệ nam nữ với các cô gái Tây Tạng trong lùm cây bụi cỏ phòng trọ và bị tụi nó thường xuyên bắt gặp. Nó còn kể có cô ……… đau quá la hét ỏm tỏi nữa chứ!!!!

Tôi hỏi một số nữ du khách đi du lịch một mình thì họ cũng thừa nhận (và kinh nghiệm của tôi cũng thế!) rằng: các Lạt Ma thấy họ đi một mình hay tiếp cận nói chuyện và tìm cách mời về phòng riêng để chơi lắm. Tôi cũng đến chơi phòng các vị ấy mấy lần. Chỉ chơi thôi chứ chưa làm gì đâu nhé các bạn chớ tưởng bở à nghen!!!!!!!!!!!!

Thậm chí ngay chính người Tây Tạng còn không phục các vị Lạt Ma ấy mà. Lúc ấy, tôi quen một anh chàng Tây Tạng, không phải tu sĩ mà là người hoạt động cho sự độc lập của Tây Tạng (tiếng Anh gọi là activist), anh ta thấy tôi đến phòng Lạt Ma chơi nên ……………mắng tôi quá trời; bảo rằng tôi là người nước ngoài nên không biết chứ anh ta là người Tây Tạng nên biết họ quá rõ. Anh ta bảo lần sau không được làm thế!!!!

Anh ta có vẻ “ác cảm” với các Lạt Ma lắm và không đồng ý với đường lối chính trị của Ngài Đạt Lai Lạt Ma.

Một sư cô bảo tôi rằng các Lạt Ma Tây Tạng chăm chỉ đọc chú hằng ngày lắm, mục đích là để người ta……………..cúng dường nhiều nhiều vào. Bó tay.com

Do Phật Giáo Tây Tạng là Mật Tông, trì chú rất nhiều nên cực kỳ cẩn thận khi nhận Quán Đảnh các bạn nhé!!!!!!!!!!

Dĩ nhiên là không phải vị Lạt Ma nào cũng như xấu nhưng thời buổi Mạt Pháp mà, không nên nhận Thầy cẩu thả bừa bãi được đâu!!! Ông Già ngồi trên bàn thờ kia là một minh sư không thể sai được mà sao không đi theo nhỉ???? Bản thân mỗi người chúng ta cũng là một vị Phật tương lai mà sao không đi theo nhỉ???????? Đi lung tung làm gì cơ chứ???????? Hơ, đời quả là lạ thật!!!!!!!!!!!!!

Bài liên quan: Thương cho Phật giáo Bắc tông!!!!