CÁCH SỬ DỤNG BLOG NÀY

1. Đi tượng đc gi:1. Nhng bn tr có máu phiêu lưu thích chu du x người trong thi gian dài nhưng vi s tin ti thiu nht có th; 2. Nhng người có tâm hn rng m, sn sàng dp cái tôi và quan đim ca mình sang bên đ tiếp nhn nhng quan đim mi.


2. Quan đim: Bn suy nghĩ khác tôi không có nghĩa là bn đúng, tôi sai hay tôi đúng, bn sai. Bn suy nghĩ khác tôi bi vì tôi và bn không ging nhau. The meaning of life is not in trying to find out who is right, who is wrong; the meaning of life is in accepting each other's differences.


3. Phương tin: "Vi bát cơm ngàn nhà; Mt mình muôn dm xa; Chn chn không phi nhà; Ch nào cũng là nhà."

4. Ni dung: Bao gm nhiu lĩnh vc mà tôi quan tâm 1. Du lch bi (Budget Travelling) 2. Sng ti gin (Minimalism) 3. Tái chế và tái s dng (Upcycle & Repurpose) 4. Tâm linh (Spirituality) 5. Triết lý cuc sng

Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013

NGHỆ THUẬT SỐNG: THIỀN VIPASSANA

NGHỆ THUẬT SỐNG: THIỀN VIPASSANA
S.N. Goenka

---o0o---

Nguồn
http://thuvienhoasen.org
Chuyển sang ebook 29-7-2009
Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com
Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org

Mọi người đều tìm kiếm an lạc và hài hòa bởi vì đây là điều chúng ta thiếu trong cuộc sống. Đôi khi chúng ta cảm thấy bứt rứt, bực bội, không yên. Và khi bị những nỗi khổ này hành hạ, chúng ta không giữ riêng cho mình mà thường trút đổ sang người khác. Sự buồn phiền nhiễm vào không khí xung quanh những người đang bị đau khổ. Những ai tiếp xúc với những người này đều bị ảnh hưởng lây. Chắc chắn đây không phải là cách sống khôn khéo. Chúng ta nên sống an lạc với chính mình và an lạc với người khác. Tóm lại, con người là những sinh vật sống hợp quần, tạo thành xã hội và phải giao tiếp với nhau. Nhưng làm sao chúng ta có thể sống an lạc được? Làm sao có thể duy trì được hài hòa nội tâm, duy trì được sự an lạc, hài hòa xung quanh chúng ta để người khác cũng được sống an lạc và hài hòa?


Để thoát khỏi khổ đau, chúng ta phải biết nguyên nhân căn bản, nguồn gốc của khổ đau. Nếu chúng ta tìm hiểu vấn đề này, nó trở nên rõ ràng rằng, mỗi khi trong tâm có những phiền não, bất tịnh, chúng ta trở nên không vui.


Phiền não trong tâm, một sự xấu, bất tịnh tinh thần không thể tồn tại chung với an lạc, hài hòa được. Chúng ta khởi sự tạo ra phiền não bằng cách nào? Một lần nữa nếu tìm hiểu chúng ta sẽ thấy rõ. Chúng ta trở nên không vui khi thấy ai hành xử theo lối chúng ta không thích, hoặc ta thấy những gì xẩy ra mà ta không muốn. Những điều trái ý xẩy ra và chúng ta tạo căng thẳng trong tâm. Những cái chúng ta muốn mà không được vì vài trở ngại nào đó và ta trở nên căng thẳng, tạo thành những gút mắc. Và trong suốt cuộc đời, những điều chúng ta muốn có thể hoặc không thể đạt được, những lối phản ứng bằng cách tạo ra gút mắc làm cho toàn bộ tinh thần và thể xác căng thẳng, đầy phiền não khiến cho cuộc đời trở nên đau khổ.


Bây giờ, một cách để giải quyết vấn đề này là dàn xếp để trong cuộc đời không có điều gì trái ý xẩy ra, để mọi điều đều xẩy ra theo ý mình. Một là chúng ta phải có quyền phép nào đó hoặc ai cho chúng ta quyền phép này, để những điều trái ý không xẩy ra và mọi cái chúng ta muốn đều đạt được. Nhưng điều này không bao giờ có thể được. Không một ai trên cõi đời này đạt được mọi mong ước, mọi việc đều xẩy ra theo ý mình mà không có gì trái ý xẩy ra. Sự việc tiếp tục xẩy ra trái với sự mong muốn và ước nguyện.


Do đó, câu hỏi được đặt ra là: Làm sao chúng ta ngừng phản ứng mù quáng khi gặp những điều không hài lòng? Làm thế nào để chúng ta ngừng tạo ra căng thẳng và giữ được an lạc và hài hòa?


Tại Ấn độ cũng như tại các nuớc khác, những thánh nhân trong quá khứ đã nghiên cứu vấn đề này — vấn đề đau khổ của con người — để tìm ra giải pháp. Nếu điều gì trái ý xẩy ra và chúng ta phản ứng bằng sự tức giận, bằng sợ hãi, hoặc bằng những bất tịnh khác, thì ta lập tức chuyển sự chú tâm vào cái gì khác. Ví dụ như: đứng dậy lấy một ly nước uống, sự tức giận của ta sẽ dịu bớt. Hoặc ta bắt đầu đếm một, hai, ba, bốn. Hoặc bắt đầu lập lại một câu hoặc lời chú hoặc tên của một vị thần linh mà ta tôn sùng, tâm ta sẽ chuyển hướng và ta sẽ bớt được phần nào phiền não, sẽ nguôi bớt giận.


Giải pháp này hữu ích và luôn luôn công hiệu. Giải quyết bằng cách này, tâm ta sẽ bớt bứt rứt. Tuy nhiên giải pháp này chỉ công hiệu ở phần nhận thức. Trên thực tế, bằng cách chuyển sự chú tâm, ta đẩy phiền não sâu vào trong vô thức, và ta vẫn gia tăng gấp bội những phiền não đó. Ngoài mặt có vẻ có an lạc, hài hòa, nhưng trong đáy lòng vẫn còn một núi lửa bị đồn ép đang ngủ yên và sẽ bùng nổ dữ dội không biết lúc nào.


Có những vị khác nghiên cứu sự thật về nội tâm đã tìm hiểu sâu rộng hơn, và bằng cách trực nghiệm sự thật về tâm và thân ngay trong chính họ, nhận ra rằng, chuyển sự chú tâm chỉ là sự tránh né vấn đề. Tránh né không giải quyết được gì cả. Quý vị phải nhìn thẳng vào vào vấn đề. Khi nào phiền não nổi lên trong tâm, cứ quan sát nó, đối diện với nó. Ngay sau khi quý vị khởi sự quan sát, phiền não sẽ giảm cuờng độ và từ từ biến mất.


Giải pháp này rất tốt vì tránh được những cực đoan: không dồn nén cũng không buông thả. Vùi sâu sự phiền não trong vô thức sẽ không loại trừ đuợc nó, và để nó tung hoành bằng những việc làm hoặc lời nói bất thiện chỉ tạo thêm rắc rối. Nhưng nếu quý vị chỉ quan sát thì phiền não sẽ mất đi, và quý vị sẽ loại trừ được nó.


Điều này nghe rất hay, nhưng trên thực tế có thực hiện được không? Đối phó với cái xấu của chính mình không phải là dễ. Khi sân hận nổi lên, lập tức chúng ta bị chế ngự khiến chúng ta không thể nhận ra được. Rồi mù quáng vì sân hận, chúng ta có những hành động và lời nói làm hại chính ta và người khác. Sau đó, khi đã nguôi giận, chúng ta khóc lóc, hối hận, cầu xin được tha thứ của người này, người nọ, hoặc các vị thần linh: “Ôi tôi đã tạo nên lỗi lầm, xin tha thứ cho tôi.” Nhưng rồi lần tới, chúng ta lại rơi vào tình trạng tương tự và cũng hành xử y như thế. Hối lỗi kiểu này không mang lại ích lợi gì cả.


Sự khó khăn là chúng ta không biết khi nào phiền não bắt đầu. Nó khởi sự trong vô thức và khi đã lên đến tầng nhận thức nó đã có đủ sức mạnh chế ngự chúng ta khiến chúng ta không thể quan sát nó được.


Giả thử tôi mướn một thư ký riêng để khi nào sân hận nổi lên, người thư ký nói với tôi: “Coi kìa, sân hận đã bắt đầu”. Bởi vì tôi không biết khi nào sân hận xẩy ra, tôi phải mướn đủ thư ký cho ba ca. Nếu tôi có khả năng làm thư thế, và khi sân hận nổi lên lập tức người thư ký báo cho tôi: “Coi kìa sân hận đã bắt đầu”. Việc đầu tiên tôi làm là mắng người thư ký: “Đồ ngốc, bộ tưởng tôi trả tiền để dậy bảo tôi hả?” Tôi đã bị sự sân hận chi phối nên sự khuyên bảo không giúp ích gì được.


Giả thử tôi vẫn còn đủ trí khôn và không la mắng người thư ký. Trái lại, tôi còn nói: “Cám ơn nhiều. Bây giờ tôi phải ngồi xuống để quan sát sự sân hận của tôi”. Ngay sau khi tôi nhắm mắt để quan sát, căn nguyên gây ra sân hận hiện ra trong đầu: Người hoặc sự việc gây ra sự sân hận này. Nhưng lúc đó tôi không quan sát sự sân hận mà chỉ quan sát căn nguyên gây ra sân hận.Điều này chỉ làm cho sân hận gia tăng và không giải quyết được gì cả. Thật khó khăn khi quan sát phiền não hoặc cảm xúc trừu tượng và tách riêng được những căn nguyên bên ngoài gây ra chúng.


Tuy nhiên, một người đã giác ngộ đã tìm ra một giải pháp thiết thực. Vị đó khám phá ra rằng khi nào có phiền não trong tâm, về sinh lý có hai việc xẩy ra cùng một lúc: một là hơi thở mất nhịp điệu bình thường.

Chúng ta bắt đầu thở mạnh hơn khi phiền não đến trong tâm. Ở mực độ tinh vi hơn, các phản ứng sinh hóa bắt đầu tạo ra những cảm giác. Mọi phiền não đều tạo ra cảm giác này hay cảm giác khác trong cơ thể.
Điều này đưa đến một giải pháp thiết thực. Một người bình thường không thể quan sát được những phiền não trừu tượng trong tâm như sợ hãi, sân hận, si mê. Nhưng với sự hướng dẫn và tập luyện đúng cách thì rất dễ quan sát sự hô hấp và cảm giác, hai cái liên quan trực tiếp với những phiền não trong tâm.


Sự hô hấp và cảm giác sẽ giúp ta hai cách. Thứ nhất, nó giống như người thư ký riêng. Ngay khi phiền não nổi lên trong tâm, hơi thở sẽ mất bình thường. Nó sẽ báo động: “Coi kìa, có cái gì không ổn”. Vì chúng ta không thể la mắng hơi thở, chúng ta phải chấp nhận sự cảnh cáo của nó. Tương tự, cảm giác sẽ cho chúng ta biết có gì không ổn. Khi được cảnh giác, chúng ta có thể bắt đầu quan sát sự hô hấp, bắt đầu quan sát cảm giác, và rất nhanh chóng chúng ta thấy sự phiền não mất đi.


Hiện tượng này giống như hai mặt của đồng tiền kên. Một là ý nghĩ, cảm xúc hiện ra trong tâm, mặt kia là hơi thở và cảm giác trên thân. Bất cứ ý tưởng, xúc động nào, bất cứ phiền não nào trong tâm đều thể hiện bằng hơi thở và cảm giác ngay lúc đó. Do đó, bằng cách quan sát sự hô hấp hoặc cảm giác, chúng ta thực sự quan sát phiền não trong tâm. Thay vì tránh né vấn đề, chúng ta phải trực diện với thực tế hiện hữu. Kết quả ta thấy rằng, phiền não mất đi sức mạnh, chúng không còn trấn áp được ta như trong quá khứ. Nếu ta kiên trì, chúng sẽ hoàn toàn biến mất và ta bắt đầu sống an lạc, một cuộc sống ngày càng ít những điều xấu.


Bằng cách này, phương pháp tự quan sát cho chúng ta thấy thực tế ở hai trạng thái: bên trong và bên ngoài. Trước đây, chúng ta chi nhìn bên ngoài mà quên đi sự thật bên trong. Chúng ta luôn luôn tìm kiếm ngoài ta về nguyên nhân của những bất hạnh. Chúng ta luôn luôn đổ lỗi và cố thay đổi sự thật bên ngoài. Vô minh về sự thật bên trong, chúng ta không bao giờ hiểu rằng nguồn gốc của sự đau khổ nằm trong ta, nằm ngay trong những phản ứng mù quáng đối với những cảm giác dễ chịu hoặc khó chịu.


Bây giờ, với sự tập luyện, chúng ta có thể thấy được mặt kia của đồng bạc. Chúng ta có thể có ý thức về hơi thở của mình cũng như những gì xẩy ra trong người. Dù là hơi thở hay cảm giác, chúng ta biết cách chỉ quan sát mà không mất bình tâm. Chúng ta ngừng phản ứng, ngừng gia tăng sự đau khổ của mình. Trái lại, chúng để cho phiền não thể hiện rồi mất đi.


Càng thực tập phương pháp này, những phiền não càng ngày càng mất đi nhanh chóng hơn. Dần dần tâm ta hết những bất tịnh và trở nên trong sạch. Một tâm thanh tịnh lúc nào cũng tràn đầy tình thương không vị kỷ đối với mọi người, đầy lòng từ bi về những đau khổ, những thất bại của người khác, đầy mừng vui vì sự thành công, an lạc của người, đầy bình tâm trong mọi hoàn cảnh.


Khi đạt được trình độ này, mọi thói quen trong đời ta đều thay đổi. Không thể nào có thể có những lời nói hoặc hành động phá rối sự an lạc và hạnh phúc của người khác. Trái lại, một tâm quân bình không những chỉ trở nên an lạc mà bầu không khí chung quanh cũng nhuốm đầy an lạc và hài hòa.

Điều này sẽ bắt đầu ảnh hưởng đến người khác, giúp ích cho họ luôn. Bằng cách giữ được bình tâm với mọi cảm xúc trong người, ta tìm được cách tách rời những gì ta gặp bên ngoài ta luôn. Tuy nhiên sự thoát ly không phải là cách tránh né hoặc thờ ơ với những khó khăn của cuộc đời. Những người thực tập thiền Vipassana thường trở nên nhạy cảm đối với những khổ đau của người khác và làm hết khả năng mình để xoa dịu những khổ đau này, không phải vì bắt buộc, mà với đầy từ, bi và bình tâm Họ biết cách có được sự vô tư thánh thiện, học được cách tham gia hết lòng, tham dự nhiệt thành trong việc giúp đỡ người khác, cùng một lúc duy trì được sự bình tâm.


Bằng cách này, họ giữ được an lạc và hạnh phúc, đồng thời tạo nên an lạc và hạnh phúc chongười khác. Đây là những gì Đức Phật giảng dậy: Một Nghệ Thuật Sống. Ngài không dậy cho họ những giáo điều, những hình thức nghi lễ rỗng tuếch. Ngài chỉ dậy cho họ quan sát thiên nhiên hiện hữu bằng cách quan sát thực trạng nội tâm. Vì vô minh nên chúng ta cứ hành xử theo lối có hại cho mình và cho người. Nhưng khi đã có trí tuệ - trí tuệ của sự quan sát sự thật đúng như thật — thói quen phản ứng này mất đi. Khi chúng ta ngừng phản ứng mù quáng, chúng ta có khả năng hành xử một cách vô tư với sự bình tâm, một cái tâm thấy và hiểu được chân lý. Lối hành xử như vậy chỉ có thể tích cực, đầy sáng tạo có lợi cho mình và cho người.


Như vậy điều cần thiết là “Biết Mình”, lời khuyên của mọi thánh nhân. Chúng ta phải hiểu chính mình không phải chỉ bằng sách vở, bằng lý thuyết, không phải chỉ bằng cảm xúc, hoặc lòng tin, chỉ chấp nhận một cách mù quáng những gì chúng ta nghe và học được. Sự hiểu biết như vậy không đủ.


Tốt hơn hết, chúng ta phải hiểu đươc thực thể của hiện tượng tâm và thân này. Chỉ riêng điều này sẽ giúp chúng ta giải thoát khỏi đau khổ.


Sự trực nghiệm nội tâm của chính mình, phương pháp tự quan sát này được gọi là thiền Vipassana. Theo ngôn ngữ Ấn dộ vào thời của Đức Phật, passana có nghĩa là thấy một cách bình thường với con mắt mở rộng. Nhưng vipassana là quan sát sự thật đúng như thật chứ không phải tưởng như thật. Sự thật hiển nhiên phải được xuyên thủng cho tới khi ta đạt được sự thật tối hậu của toàn thể cấu trúc tâm lý - vật lý. Khi đã chứng nghiệm được sự thật này, chúng ta sẽ biết cách ngừng phản ứng mù quáng, ngừng tạo ra phiền não mới và những phiền não cũ sẽ từ từ mất đi một cách tự nhiên. Chúng ta sẽ hết khổ và hưởng đưọc hạnh phúc thật sự.

Trong một khóa thiền, sự tu tập gổm có ba phần. Đầu tiên ta phải tránh những hành động bằng lời nói hoặc việc làm quấy rối sự an lạc và hài hòa của người khác. Ta không thể tu tập để giải thoát khỏi những bất tịnh trong khi có những hành động và lời nói làm gia tăng những bất tịnh này. Do đó, giới luật là điều tối cần trong bước đầu của sự tu tập. Ta thực hành không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không sửdụng rượu. Bằng cách tránh khỏi những hành động này, ta làm cho tâm đủ tĩnh lặng để tiến xa hơn.


Phần kế tiếp là tu tập làm chủ được cái tâm vọng động bằng cách chú tâm vào một đối tượng: đó là hơi thở. Ta cố gắng giữ được sự chú tâm vào sự hô hấp càng lâu càng tốt. Đây không phải là sự tập luyện về hơi thở, ta không điều khiển hơi thở. Trái lại ta quan sát sự hô hấp bình thường, lúc ra, lúc vào. Bằng cách này, ta làm cho tâm được yên tĩnh, để nó không bị những phiền não chi phối. Cùng một lúc ta định được tâm, làm cho tâm đủ bén nhậy và sâu sắc để đưa đến tuệ giác.


Hai phần đầu này, sống có đạo đức và làm chủ được tâm rất cần thiết nhưng chúng chỉ đưa đến sự dồn nén những phiền não nếu chúng ta không tập phần thứ ba, đó là thanh lọc tâm hết những phiền no bằng cách phát triển huệ nhãn vào chính bản thân mình. Đây là Vipassana: Chứng nghiệm sự thật về bản thân bằng cách quan sát trong ta một cách vô tư, có phương pháp những hiện tượng thay đổi không ngừng của thân và tâm thể hiện qua cảm giác.

Đây là tổng hợp những lời dậy của Đức Phật: tự thanh lọc tâm bằng tự quan sát.


Mọi người ai cũng có thể tu tập được. Mọi người đều phải đương đầu với khổ đau. Đây là bệnh chung của con người và cần phải có thuốc chữa chung, không riêng cho ng ười nào. Khi ta đau khổ vì sân hận, nó không phải sân hận của Phật giáo, hoặc sân hận của Ấn độ giáo, hoặc sân hận của Thiên chúa giáo. Sân hận là sân hận. Khi ta bị giao động vì giận giữ, sự giao động này không phải riêng của người theo Thiên chúa giáo, hoặc Do thái giáo hoặc Hồi giáo. Bệnh này là bệnh chung của nhân loại. Thuốc chữa phải chữa được cho mọi người. Vipassana là loại thưốc này. Không ai phản đối lối sống tôn trọng an lạc và hài hòa của người khác. Không ai phản đối việc làm chủ được tâm mình. Không ai phản đối sự phát triển tuệ giác vào chính bản thân mình để có thể giải thoát tâm mình khỏi những phiền não. Vipassana là đường lối chung cho mọi người.


Quan sát thực thể bằng cách quan sát sự thật nội tâm — đây là biết mình trực tiếp và bằng trực nghiệm. Càng thực tập ta càng thoát được đau khổ vì tâm phiền não. Từ một sự thật sơ đẳng, ngoại vi, giả thực, ta xuyên thấu tới sự thật tối hậu về tâm và thân. Khi vượt qua được giai đoạn này, ta chứng nghiệm được sự thật bên kia tâm và thân, vượt thời gian và không gian, vượt môi trường tương đối: chân lý về sự giải thoát hoàn toàn khỏi phiền não, bất tịnh và khổ đau. Bất cứ danh từ nào ta gán cho sự thật tối hậu này đều không thành vấn đề; đó là mục tiêu cuối cùng của con người.


Chúc Quý vị chứng nghiệm được sự thật tối hậu này. Chúc mọi người được giải thoát khỏi khổ đau. Chúc mọi người hưởng được an lạc thật sự, hài hòa thật sự, hạnh phúc thật sự.

---o0o---
NGUYỆN CHO MỌI CHÚNG SINH ĐƯỢC HẠNH PHÚC


Bài trên đây dựa trên buổi nói chuyện trước công chúng của Thiền sư S.N. Goenka tại Berne, Thụy sĩ vào năm 1980.


S. N.Goenka là một thiền sư về thiền Vipassana theo truyền thống của Sayagyi U Ba Khin tại Miến điện. Mặc dầu là người Ấn độ, Thiền sư Goenka sinh trưởng và lớn lên tại Miến điện. Trong khi sống tại Miến điện, Thiền sư may mắn được gặp U Ba Khin và được truyền thụ phương pháp thiền Vipassana. Sau mười bốn năm tu tập với sư phụ, Thiền sư Goenka trở về sinh sống tại Ấn độ và bắt đầu giảng dậy Vipassana vào năm 1969. Tại một quốc gia bị chia rẽ bởi nhiều giai cấp và tôn giáo, những khóa thiền do Thiền sư Goenka giảng dậy đã lôi cuốn được nhiều người thuộc mọi thành phần trong xã hội. Thêm vào đó, hàng ngàn người từ nhiều quốc gia trên thế giới đã tới tham dự những khóa thiền Vipassana.


Thiền sư Goenka đã truyền dậy cho hàng ngàn người trong hơn 400 khóa thiền-mười ngày tại Ấn độ và tại những quốc gia khác, cả ở Đông phương lẫn Tây phương. Năm 1982, Thiền sư bắt đầu bổ nhiệm những Thiền sư Phụ tá để giúp Ngài đáp ứng nhu cầu thêm khóa thiền ngày một gia tăng. Hơn 70 trung tâm thiền đã dược thành lập dưới sự hướng dẫn của Thiền sư tại Ấn độ, Nepal, Tích lan, Miến điện, Thái lan, Cam bốt, Đài loan, Mông cổ, Nhật bản, Úc đại lợi, Tân tây lan, Tây ban nha, Pháp, Ý, Bỉ, Đức, Thũy sĩ, Anh, Mỹ, và nhiều khóa thiền được giảng dậy thường xuyên tại nhiều quốc gia trên thế giới.


Phương pháp do Thiền sư Goenka giảng dậy tượng trưng cho một truyền thống có từ thời của Đức Phật. Đức Phật không bao giờ giảng dậy một tôn giáo riêng biệt; Ngài giảng dậy Dhamma (Pháp) - đường lối giải thoát – là đường lối chung cho mọi người. Với cùng truyền thống, phương pháp của Thiền sư Goenka hoàn toàn không tông phái. Vì lý do này, sự giảng dậy của Thiền sư thích hợp với mọi người thuộc mọi thành phần, mọi tôn giáo hoặc không thuộc tôn giáo nào, ở mọi trên thế giới.

Người dịch và gửi bài: Đinh Văn Thao
---o0o---
HẾT

Xem nguồn của bài viết tại đây

Xem thời khóa biểu các khóa thiền Vipassana HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ trên toàn thế giới tại các trung tâm thiền của Ngài S.N Goenka tại đây




Lời của nhà hiền triết đáng được suy ngẫm.....


Tại sao phải hét to khi tức giận ?

Có một vị hiền triết đã hỏi các đệ tử rằng: “Tại sao trong cơn giận dữ người ta thường phải thét thật to vào mặt nhau ?”

Sau một lúc suy nghĩ, một trong những đệ tử ấy đã trả lời: “Bởi vì người ta mất bình tỉnh, mất tự chủ!”

Vị hiền triết không đồng ý với câu trả lời, ngài bảo: “Nhưng tại sao phải hét lên trong khi cả hai đang ở cạnh nhau, tại sao không thể nói với một âm thanh vừa phải đủ nghe ?”

Các đệ tử lại phải ngẫm nghĩ để trả lời nhưng không có câu giải thích nào khiến vị thầy của họ hài lòng.

Sau cùng ông bảo: “Khi hai người đang giận nhau thì trái tim của họ đã không còn ở gần nhau nữa. Từ trong thâm tâm họ cảm thấy giữa họ và người kia có một khoảng cách rất xa, nên muốn nói cho nhau nghe thì họ phải dùng hết sức bình sinh để nói thật to. Sự giận dữ càng lớn thì khoảng cách càng xa, họ càng phải nói to hơn để tiếng nói của họ bao trùm khoảng cách ấy.”

Ngưng một chút, ngài lại hỏi: “Còn khi hai người bắt đầu yêu nhau thì thế nào? Họ không bao giờ hét to mà chỉ nói nhỏ nhẹ, tại sao? Bởi vì trái tim của họ cận kề nhau. Khoảng cách giữa họ rất nhỏ…”

Rồi ngài lại tiếp tục: “Khi hai người ấy đã yêu nhau thật đậm đà thì họ không nói nữa, họ chỉ thì thầm, họ đã đến rất gần nhau bằng tình yêu của họ. Cuối cùng ngay cả thì thầm cũng không cần thiết nữa, họ chỉ cần đưa mắt nhìn nhau, thế thôi! Vì qua ánh mắt đó họ đã biết đối phương nghĩ gì, muốn gì ..”

Ngài kết luân: “Khi các con bàn cãi với nhau về một vấn đề, phải giữ trái tim của các con lúc nào cũng cận kề. Đừng bao giờ thốt ra điều gì khiến các con cảm thấy xa cách nhau… Nếu không thì có một ngày khoảng cách ấy càng lúc càng rộng, càng xa thì các con sẽ không còn tìm ra được đường quay trở về !

Xem nguồn tại đây

Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2013

Ai sợ chết thì nên đọc

Bài viết này do tôi chôm từ blog của người khác. Chép và dán vào thôi chứ tôi vẫn chưa đọc bởi vì tôi đâu có sợ chết.

Có nhiều sách viết về sự chết lắm; mọi người cố tìm đọc nhé, vào google tìm ebook cũng có nữa (Vd: Hành trình về phương Đông)! Hy vọng lúc sắp chết, ai cũng nói được câu: "May quá, tôi sắp chết rồi!" Hoặc "Sướng quá! Sắp được chết rồi!"

Chủ nhật, ngày 28 tháng mười năm 2012


LUẬN VỀ SỐNG VÀ CHẾT

Nhà văn Đắc Trung
“Kiếp người chỉ sống một lần và chết một lần.
                                                                  Phải sống sao cho có nghĩa và chết sao cho có nghĩa."
                                                                                                  PLATON
                                                                                        (Triết gia Hy Lạp cổ đại)

Trước khi luận về “sống” và “chết”, ta hãy cùng tìm hiểu về Tâm và Xác, về Chuyển Kiếp Luân Hồi dưới sự chi phối của Nhân Quả thuộc phạm trù Tâm Linh và thế giới quan Đạo Phật.
Tâm Linh
Không phải bây giờ người ta mới nghiên cứu, mà ngay từ 400 năm trước công nguyên, nhà triết học Hy Lạp vĩ đại Pla-ton (427-347 TCN) đã dành nhiều thời gian và tâm huyết cho lĩnh vực này. Hướng nghiên cứu của ông chủ yếu là phần hồn của sự vật, xem cơ thể như là nơi cư trú tạm thời của tâm linh. Ông trình bày khá kỹ những tư duy về số phận con người sau khi chết. Nhiều cuốn sách ông mô tả và bàn luận về việc khi tâm linh tách khỏi thân xác đi vào thế giới âm gian ra sao, tồn tại với các tâm linh khác thế nào trước khi đầu thai trở lại ...
Sau Pla-ton nhiều nhà khoa học tên tuổi thuộc các lĩnh vực triết học, tâm lý, sinh học, nhân chủng, thiên văn, vật lý, y học ... trên thế giới như Willam Krook (Anh), Stephenson (Mỹ), Ni Akbrem (Thụy Điển), Kar Yager (Thụy Sĩ), Tomilai Tomokichi (Nhật Bản), Caming Franmario (Pháp)... đã chuyển hướng nghiên cứu sang lĩnh vực tâm linh. Nhiều quốc gia lớn thành lập hiệp hội hoặc viện nghiên cứu tâm linh từ những năm đầu thế kỷ 19 như Anh, Mỹ, Nhật... (“Hiệp hội Nghiên cứu Tâm linh” của Anh có ba nhà bác học được giải thưởng Nobel thay nhau làm Chủ tịch, nhiều hội viên là viện sỹ Viện Hàn lâm Hoàng gia, có người làm Thủ tướng còn lại hầu hết là giáo sư đại học). Không ít báo cáo khoa học nhận định rằng bộ não con người mới chỉ vận dụng được 10% khả năng làm việc, 90% còn lại “đang ngủ”. Mục đích nghiên cứu tâm linh là nhằm phát hiện và triệt để sử dụng siêu năng lực tiềm tàng của con người. Vì thế đến nay tâm linh đã trở thành lĩnh vực được nhiều nước, nhiều nhà khoa học đầu tư nghiên cứu.
Đạo Phật
Là tôn giáo tin vào trí tuệ, không mê tín huyền hoặc mà tìm hiểu và giải đáp về vũ trụ, về vạn vật và gần gũi cuộc sống con người. Ngay chùa chiền cũng không đồ sộ, uy nghi, cách biệt mà thư tĩnh, ẩn mình dưới những tán cây xanh tốt hoà đồng với xóm quê thôn dã. Đạo Phật là học thuyết mang tính nhân sinh và nhân ái cao cả. Đạo Phật có nhiều sự thống nhất với khoa học hiện đại. Đạo Phật tôn trọng sự hoài nghi để thúc đẩy phát triển. Đạo Phật chủ trương chân lý không có ranh giới và bản thân nó không phụ thuộc vào bất cứ một tôn giáo, một thế lực, hoặc cá nhân nào trong lịch sử. Đạo Phật cho rằng mọi giáo lý đã tồn tại hàng nghìn năm đều có ích, nếu không nó đã bị trí tuệ của loài người đào thải. Đặc biệt so với các tôn giáo khác Đạo Phật đề cập nhiều nhất, lý giải toàn diện, đầy đủ và sâu sắc nhất về “sống” và “chết” của con người.
Vậy Tâm Linh và Đạo Phật quan niệm thế nào về...
Tâm và Xác:
Khi sống trên dương gian con người có hai phần: tâm hồn và thân xác. Tâm thuộc bản chất: thiện-ác, tốt-xấu... có tác dụng thuyết phục, khẳng định, đánh giá. Hồn thuộc hình thức: gây sự chú ý, hấp dẫn, lôi cuốn. Tâm hồn nào gắn với thân xác ấy, định hình nên mỗi cá nhân. Tuy nhiên tâm hồn vẫn có thể tồn tại ngoài thân xác. Mối quan hệ vừa gắn kết thống nhất, vừa độc lập ấy đã được khoa học tâm linh khẳng định mà đặc trưng là hiện tượng ngủ mơ và cận tử.
Ngủ mơ: Hầu hết người nào cũng ngủ mơ. Khi mơ thân xác vẫn nằm đấy, nhưng tâm hồn thì đã tách khỏi, mộng du tới nơi khác, có thể giống, có thể không giống thế giới thực tại; “gặp” những người có thể còn sống, có thể đã chết, có thể quen biết, có thể rất xa lạ; chứng kiến những việc bình thường, hoặc rất ly kỳ; có nội dung và hình ảnh lúc tỉnh dậy nhớ hết, kể lại được, có khi chỉ lờ mờ rồi quên ngay. Rõ ràng ngủ mơ chính là tâm hồn rời khỏi thân xác.
Cận tử: Là hiện tượng người “sống” tiếp cận với “chết” sau đó hồi sinh. Hình ảnh và sự việc thấy ở âm gian người cận tử có thể nhớ và kể lại được. Bất luận bởi nguyên nhân gì: ốm nặng chết lâm sàng, sống lại; tai nạn giao thông ngất, rồi tỉnh; ngạt thở dưới nước được vớt lên cấp cứu kịp; chó dại cắn đã lên cơn mà chữa khỏi; hay tự tử không chết... hầu hết những người cận tử kể có nhiều điểm giống nhau: hồn rời khỏi xác bay lơ lửng trên cao, gặp hồn người đã chết đón, thấy hồ nước, dòng sông, vườn hoa, mây chờn vờn như sương mờ, đường hầm tối đen, luồng ánh sáng trắng loá... Không ít người sau cận tử bỗng xuất hiện khả năng đặc biệt: nhìn thấy hài cốt, di vật trong lòng đất, nhận biết rất rõ hình bóng, nghe, hiểu và giao tiếp được với tâm linh người quá cố, truyền đạt lại ý và lời tâm linh nói, hoặc mời tâm linh nhập vào mình và nói lên tiếng nói của tâm linh, vẽ được sơ đồ mộ chí người quá cố từ khoảng cách rất xa... Đó là những nhà ngoại cảm. Họ xuất hiện từ rất sớm trên thế giới như: Eimir (Ấn Độ), Kasy (Mỹ), Fores (Anh) ... Ở Việt Nam hiện nay “Khoa Cận tâm lý” thuộc “Trung tâm khai thác tiềm năng con người” nằm trong “Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng” đã tập hợp được những nhà ngoại cảm nhiều uy tín như Phan Thị Bích Hằng, Đỗ Bá Hiệp, Nguyễn Văn Liên, Thẩm Thuý Hoàn, Nguyễn Thị Phương, Nguyễn Văn Nhã... Những đề tài nghiên cứu về khoa học tâm linh do họ thực hiện đạt kết quả cao. Hàng chục vạn bộ hài cốt liệt sĩ, trong đó có những tên tuổi lớn, hàng ngàn phần một thất lạc được họ tìm thấy. Một số cơ quan khoa học chuyên ngành như Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học Hình sự (Bộ Công an), Trung tâm Bảo trợ Văn hoá và Kỹ thuật Truyền thống, Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng được Chính phủ giao nghiên cứu đã báo cáo: “Khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là có thật”. Rõ ràng cận tử chính là hiện tượng tâm hồn rời khỏi thân xác.
Bằng tu luyện người ta cũng có thể khiến cho hồn rời khỏi xác. Tất nhiên việc đó là rất khó, không chỉ đòi hỏi tính khoa học mà còn phải có ý chí, nghị lực và lòng kiên trì rất cao. Thân thể người ta có 9 cửa, nhưng duy nhất chỉ một cửa ở đỉnh đầu là nơi tâm hồn thoát ra. Các cửa này bình thường đều đóng kín. Muốn mở không thể dùng sức, mà bằng năng lực tâm linh. Triết gia Pla-ton viết: “ Nhờ dầy công tu luyện, tinh thần khi đạt sự giác ngộ về chân lý, sẽ phát ra năng lực thần bí như các nhà tiên tri, ngoại cảm”. Nhờ tu luyện mà nhà khoa học người Mỹ Rudenber có thể nằm bất động, tập trung ý thức khiến tâm hồn ở trạng thái nửa tỉnh, nửa mê, rồi thoát xác bay đi. Nhờ tu luyện mà các môn đệ của phái võ công Thiếu Lâm thuộc Phật Giáo, hoặc phái Long Môn thuộc Lão Giáo có thể nhìn thấy ánh sáng bức xạ như đám hào quang giống ngọn lửa đang cháy luôn lay động phát ra trên đầu người khác. Từ hình dáng, màu sắc của nó có thể chẩn đoán bệnh tật và chữa khỏi bằng phát công năng từ xa. Cũng bằng cách phát công năng có thể ép đẩy chất độc ra khỏi cơ thể, đánh ngã người khác mà không cần động vào họ, làm cho thân nhiệt của các sinh vật xung quanh tăng cao đến toát mồ hôi, có khi ngất xỉu, thậm chí có thể gây biến đổi kết cấu phân tử. Đánh giá về sức mạnh con người qua khí công, giáo sư Tiền Học Sâm, Chủ nhiệm Viện Nghiên cứu Khoa học Trung Quốc viết: “ Sự phát hiện năng lực đặc dị của con người là đột phá quan trọng có tác dụng vén bức màn bí ẩn của sự sống”.
Cũng bằng tu luyện người ta có thể khiến cho hồn rời khỏi xác bằng cách thôi miên. Thôi miên là phương pháp đưa tâm hồn con người vào trạng thái nửa tỉnh, nửa mê sâu, từ đó có thể nhớ lại, nhìn thấy những sự việc và hình ảnh trong ký ức đã qua, thậm chí cả tiền kiếp của mình.
Rõ ràng tu luyện cũng khẳng định tâm hồn có thể rời khỏi thân xác.
Chuyển kiếp luân hồi:
Theo tiếng Phạn: “Luân hồi” là vòng sinh tử. Ý nói những kiếp sống nối tiếp nhau. Theo giáo lý Đạo Phật cuộc đời mỗi con người đều hiện hữu giới hạn và thay đổi từ kiếp này sang kiếp khác cho tới khi giác ngộ đạt Niết Bàn mới thoát được trầm luân bể khổ trong vòng “sinh - lão - bệnh - tử”. Muốn thế phải không ngừng tu luyện trong các kiếp làm người chốn dương gian bởi mọi đoạn trường tái sinh khác không thực hiện được.
Khoa học tâm linh cũng khẳng định con người có chuyển kiếp sau khi chết. Bằng chứng là hiện tượng ký ức tiền kiếp và sự kế thừa tài năng tiền kiếp.
Ký ức tiền kiếp: Tại quận Doma, ngoại ô Tokyo (Nhật Bản) trong một gia đình có cậu bé 7 tuổi tên là Trukyo Goro. Trukyo Goro kể rằng kiếp trước bố cậu tên là Chikinoa, một nông dân ở làng Trinhoa, gần đó. Sáu tuổi cậu chết bởi cái nhọt bị nhiễm trùng. Ba năm sau cậu tái sinh vào gia đình hiện nay. Bà nội nghe xong liền đưa Trukyo Goro tới làng Trinhoa. Không mất nhiều tời gian, cũng không cần hỏi ai, rất nhanh Trukyo Goro dẫn bà nội đến đúng ngôi nhà trước đây cậu đã sống, hơn thế còn nhận ra “người mẹ kiếp trước” của mình và những người trong gia đình. Bà mẹ cho biết mấy năm trước bà có một cậu con trai tên là Trukysan, bị bệnh nhọt và qua đời. Những người thân cũng kể về đứa bé ấy... Hầu như mọi việc đều rất khớp, rất đúng với ký ức tiền kiếp mà Trukyo Goro nhớ lại. Câu chuyện này gây tiếng vang lớn trong giới khoa học và người địa phương truyền nhau rất nhanh. Sau đó giáo sư Laphong Gat (người Anh) đã viết thành sách có tựa đề “Truyện ký chuyển kiếp của Trukyo Goro” phát hành ở nhiều nước trên thế giới.
Ngày 16 tháng 6 năm 1965, giáo sư Sphenson và tiến sĩ Furse Rechard thuộc “Trung tâm nghiên cứu y học thần kinh quốc gia” (Ấn Độ) đến thăm một gia đình ở ngoại ô Niu Dely để tìm hiểu về cô bé 8 tuổi Pusouba. Cô bé kể rằng kiếp trước cô có tên là Mandipukawa, chồng là Chanda làm nghề đạp xích lô. Một lần chồng say rượu quá tay đánh chết cô... Bằng những thông tin từ cô bé hai nhà khoa học tìm được đến nơi mà kiếp trước cô bé đã sống và xác minh chủ gia đình này đã từng làm nghề đạp xích lô, có người vợ bị chết do “tai nạn”. Điều rất lạ là khi họ đưa cô bé tới, cháu còn nhận ra được từng người quen thân trước đây, tuy nhiên thái độ hoàn toàn bình thản không có vẻ gì là thù hận. Câu chuyện trên được hai nhà khoa học báo cáo với chính quyền địa phương. Cảnh sát mở lại cuộc điều tra và hung thủ phải nhận tội. 9 tuổi cô bé quên hết không nhớ gì về “tiền kiếp” của mình nữa và phát triển tự nhiên như các bạn cùng lứa.
Kế thừa tài năng tiền kiếp: Tại Los Anges (Mỹ), một buổi chiều tháng 8 năm 1971, vợ chồng thương gia Ferida đang đi dạo trong vườn, bỗng họ nghe từ trong nhà phát ra những khúc nhạc qua đàn Piano rất điêu luyện. Khi vào họ vô cùng ngạc nhiên thấy Lemon, đứa con trai 7 tuổi của mình đang say sưa lướt những ngón tay trên phím, mà trước đó thằng bé chưa hề học Piano. Từ hôm ấy, mấy ngày sau Lemon chơi hàng giờ liền những bản giao hưởng rất độc đáo của nhà dương cầm nổi tiếng Ochivara đã qua đời từ năm 1945. Tiến sĩ Decass, chuyên nghiên cứu hiện tượng đầu thai chuyển kiếp viết: “Nếu khi một người biểu lộ tài năng mà bản thân anh ta hoàn toàn không hề có, thì điều này chứng tỏ sự kế thừa tài năng kiếp trước, nếu kỹ năng ấy chỉ có ở một người thôi” và theo Decass nghệ sĩ dương cầm Ochivara quá cố chính là kiếp trước của Lemon. Thật ra về kế thừa tài năng tiền kiếp đã được nghiên cứu từ thời cổ đại. Baratu, nhà triết học Hy Lạp nhận định: “ Nếu có người rất dễ dàng có thể học nhanh chóng một kỹ sảo nào đó thì điều này cho thấy anh ta đã biết kỹ sảo ấy từ kiếp trước”.
Một số nước trên thế giới, có cả Việt Nam đã từng xuất hiện những cháu bé ba, bốn tuổi chưa hề đi học, nhưng có thể đọc được báo, diễn đạt rất trôi chảy, hoặc giải được những bài toán số học.
Tuy nhiên những ký ức tiền kiếp hoặc kế thừa tài năng tiền kiếp chỉ xuất hiện khi còn nhỏ dưới 10 tuổi và cũng chỉ duy trì trong thời gian ngắn rồi bị những quan hệ và thế giới thực tại chèn lấp xoá bỏ để thay dần bằng những định hình, phát triển nhân cách mới. Tiến sĩ Ross viết: “Do ảnh hưởng thế giới vật chất của cuộc sống hiện tại mà khả năng liên hệ với ‘ký ức tiền kiếp’ và ‘kế thừa tài năng tiền kiếp’ đều tiêu tan”.


SỐNG VÀ CHẾT
Sống
Là khi tâm hồn và thân xác cùng tồn tại, gắn kết nhau, định hình và phát triển thành một cá thể nhân cách trên thế giới dương gian.
Sống thế nào? Là câu hỏi mà những ai trọng nhân cách luôn trăn trở. Suy cho cùng cuộc sống của mỗi người là tổng hoà các mối quan hệ với thiên nhiên, với xã hội và với cộng đồng. Muốn tồn tại, phát triển, muốn sống có ý nghĩa rất cần phải hiểu và dần làm chủ các mối quan hệ đó.
Với thiên nhiên: Phải không ngừng khám phá, nắm được bản chất và quy luật vận động để tránh, để chống, để chinh phục, để tận dụng khai thác mọi tác động của thiên nhiên vì cuộc sống con người. Phải hiểu về âm dương, ngũ hành, về vũ trụ, mây, mưa, sấm sét, về cây trồng, vật nuôi,về gieo cấy thu hoạch,bảo quản, chế biến, về khoa học, kỹ thuật, công nghệ... Chúng ta đang sống trong thời đại mà thiên nhiên và môi trường từng ngày, từng giờ biến đổi khôn lường. Tầng ozon bị huỷ hoại, trái đất nóng lên, băng tan ở Bắc Cực, nước biển dâng cao, thảm thực vật ngày càng co hẹp, nguồn nước cạn kiệt, động đất, lũ lụt, sóng thần và biết bao thảm họa khủng khiếp khác.
Đồng thời nhân loại cũng đạt được không ít thành tựu vĩ đại. Những phát minh khám phá về zen di truyền, về kỹ thuật số, về lòng đất, lòng biển và vũ trụ... Cùng với tự nhiên còn biết bao ngành thuộc khoa học xã hội như lịch sử, triết học, đạo đức, tôn giáo, địa lý, tâm linh... tác động mạnh mẽ tới đời sống con người. Trong bối cảnh như thế, nếu mỗi chúng ta không trang bị cho mình sự hiểu biết cần thiết thì cuộc sống sẽ ra sao?
Với xã hội: Loài người từ cuộc sống bầy đàn, đến chế độ bộ, thị tộc, rồi công xã nguyên thuỷ, phong kiến, tư bản... Xu thế tất yếu là tổ chức quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật. Pháp luật là hệ thống các quy phạm có tính bắt buộc thể hiện ý chí của giai cấp thống trị quy thành luật và được bảo vệ bởi quyền lực nhà nước. Pháp luật tương ứng với từng kiểu nhà nước và nhà nước quản lý điều hành xã hội bằng pháp luật. Tất cả mọi người đều chịu sự chi phối và bình đẳng trước pháp luật. Ngay từ thế kỷ thứ 3 TCN, Hàn Phi Tử đã viết: “ Pháp luật không hùa theo bất cứ thế lực nào. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không sót kẻ thất phu. Bậc vua sáng khiến pháp luật chọn người chứ không tự mình tiến cử, khiến pháp luật đo lường công lao chứ không tự mình tính toán. Pháp luật là quy tắc của thiên hạ. Lấy pháp luật trị tội thì dân chịu chết mà không oán. Lấy pháp luật định công thì dân nhận thưởng mà không cho là ân đức. Quan lại trị dân bằng pháp luật thì dân theo, không trị dân bằng pháp luật thì dân kháng. Người dưới lấy pháp luật phục vụ người trên thì bọn dối trá không thể lừa chủ, bọn ghen ghét không thể có cái bụng kẻ giặc, bọn xu nịnh không thể bợ đỡ xảo trá, ngoài ngàn dặm không dám làm điều trái”. Sở dĩ con hổ khống chế được con chó là nhờ có nanh vuốt. Nếu hổ bỏ nanh vuốt mà trao cho chó thì ngược lại, chó sẽ khống chế hổ. Nanh vuốt giống như hình và đức. Hình là phạt. Đức là thưởng. Vua dùng hình và đức không đúng pháp luật sẽ không tạo ra tín. Tín là nền tảng của phép trị quốc. Có lần Tử Cổng hỏi Khổng Tử: “ Việc chính trị nên như thế nào ?”. Khổng Tử đáp: “Túc thực, túc binh, dân tín chí dĩ”. (Đủ ăn, đủ binh và được dân tin ). Tử Lộ lại hỏi: “ Trong ba điều ấy, nếu phải bỏ một, thì bỏ cái gì ?”. “Bỏ binh”. “ Nếu hai điều còn lại phải bỏ một, thì bỏ cái gì ?”. “Bỏ thực”. Điều thứ ba phải giữ, bởi mất lòng tin của dân là mất tất cả. Tín quan trọng là thế. Không có tín sẽ không có uy. Không tín, không uy sẽ không quản nổi xã tắc và nước sẽ loạn. Không có nước nào luôn luôn mạnh. Cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật mạnh thì nước mạnh. Hễ những người thi hành pháp luật yếu, thì nước yếu. Nhà Tống (Trung Quốc) một vương triều tồn tại hơn ba trăm năm nhờ giữ vững kỷ cương phép nước, nhờ các bậc minh vương như Tống Thái Tổ, Tống Thái Tôn, Tống Nhân Tôn, Tống Thần Tôn ... luôn kiên trì chủ trương trị quốc bằng pháp luật, nhờ những quan tư pháp chính trực thanh liêm, thiết diện vô tư như Bao Công. Vụ án “Đả Long Bào” là điển hình của thể chế chính trị lấy pháp luật làm nền tảng. Là nạn nhân của những thủ đoạn vô cùng độc ác do Lưu Nương Nương chủ mưu, thái giám Quách Hoè tòng phạm dùng xác mèo lột da thay thế hài nhi Thái tử vừa được Lý Nương Nương sinh ra... mà hai chục năm sau vô tình nhà vua mang tội bất hiếu với mẹ đẻ. Sau khi rõ nhân chứng, vật chứng để bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật, nhà vua hạ chỉ cho Bao Công lập tức thăng đường xét xử. Đây là vụ kỳ án chưa từng có. Chánh toà là Phủ doãn phủ Khai Phong và bị cáo là nhà vua. Mọi trình tự xét xử được tiến hành theo đúng luật. Hình phạt cho bị cáo là đánh năm mươi trượng. Nhà vua sẵn sàng cam chịu. Nhưng lo bảo toàn ngọc thể để quốc vương tiếp tục điều hành xã tắc, Bao Công có “sáng kiến” treo Long Bào của vua lên đánh đủ năm mươi trượng. Long Bào là biểu tượng uy thế tối cao quyền lực. Đánh vào Long Bào có nghĩa mọi người đều bình đẳng trước pháp luật bất luận là Hoàng đế hay thảo dân. Sau khi bản án được thi hành, nhà vua hạ chiếu ban bố thông cáo để khắp bàn dân thiên hạ biết về vụ án này. Một quốc gia có những bậc vua sáng như thế, những quan toà như thế, nhất định quốc gia đó mạnh.
Những đời sau, nhất là khi Tống Thần Tôn, Vương An Thạch, Bao Công… qua đời, pháp luật rệu rã, kỷ cương phép nước buông lỏng triều Tống mau chóng suy tàn để rồi Kim, Liêu, Nguyên nổi lên bá chủ. Rõ ràng nước thịnh dân an, quốc gia hùng mạnh là nhờ ở pháp luật. Bộ luật quan trọng nhất của một quốc gia là Hiến pháp. Hiến pháp đại diện quyền lợi của quốc gia chứ không thuộc riêng một giai cấp nào, một đảng phái chính trị nào. Hiến pháp là ý chí, nguyện vọng của toàn dân do những luật gia ưu tú soạn thảo, được toàn dân tham gia góp ý và được Quốc hội, những đại biểu có đức, tài do dân bầu ra thảo luận, thông qua. Dù một đảng độc quyền thống trị hay đa đảng. Dù nội các này đổ, nội các khác thay thế đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp. Hiến pháp là nền tảng cho ổn định, là cơ sở cho cả hệ thống luật pháp, đảm bảo cho sự vững mạnh và phát triển của đất nước. Hàn Phi Tử viết: “ Nhờ dây dọi thẳng mà cây cong bị đẽo. Nhờ cái mực nước bằng mà chỗ cao, chỗ nghiêng bị gọt. Nhờ treo cái cân lên mà bớt được bên nặng, thêm vào bên nhẹ. Nhờ cái đấu, cái thạch mà bớt được cái nhiều, thêm được cái ít. Cho nên đã lấy pháp luật trị nước thì chỉ cốt theo pháp luật mà làm. Pháp luật không hùa theo người quyền thế. Sợi dây dọi không uốn theo gỗ cong. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn không từ, kẻ dũng không tránh, bất luận là vua chúa hay thảo dân”. Hoàng Thái Cực,văn võ song toàn, túc trí đa mưu, là bậc minh quân sáng lập vương triều nhà Thanh. Năm 1673, sau thời gian đem quân đi đánh Triều Tiên về nhà vua biết các vương, các tướng, các quan có nhiều hành vi vi phạm pháp luật, lộng quyền tham nhũng. Ông lệnh cho cho quan chấp pháp điều tra kỹ, kê tội rồi chuyển qua Bộ Hình thẩm nghị. Có 64 người phạm tội, gồm con trai, anh em, phò mã và các cháu nhà vua. Bộ Hình thỉnh thị xin nhà vua ban lệnh xử trí thế nào. Hoàng Thái Cực không do dự, truyền: “ Cứ xử đúng theo luật pháp!”. Kết quả tử hình 24 người, cách chức 13 người, còn lại đánh roi, phạt tiền. Anh trai nhà vua là Đại Thiện, quan to trong triều, quy định chỉ được 12 hộ vệ, nhưng cậy thế là anh vua tuyển thêm hai người nữa. Hoàng Thái Cực lập tức triệu tập chư vương đại thần họp. Nhà vua xử phạt anh trai. Sự nghiêm minh ấy giúp xã tắc vững bền. Ngày nay, nói rằng xây dựng nhà nước pháp quyền mà người ở cấp này, chức nọ lại được “đặc đãi”, pháp luật đến gần họ phải dừng, phải báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét cho ý kiến chỉ đạo rồi mới được làm và làm theo chỉ đạo. Thế thì còn gì là pháp luật nữa. Người dân không sợ luật nghiêm mà chỉ sợ luật không nghiêm, nhất là không nghiêm ngay từ những người thực thi pháp luật. Bởi thế sẽ tạo kẽ hở cho bao che, hối lộ, tham nhũng, sẽ mất lòng tin, gây oan ức phẫn nộ trong dân, sẽ tiềm ẩn mâu thuẫn xã hội và mầm loạn sẽ phát sinh. Một chế độ mà luật pháp không nghiêm thì rất đáng báo động. Một quốc gia nếu không có những quan lại kiên quyết giữ vững kỷ cương phép nước, không có các bậc đại thần dám can gián để nhà vua tránh được sai lầm thì hiểm họa diệt vong đã ở ngay trước mắt.
Mỗi quốc gia đều có tới hàng trăm, hàng ngàn luật và sẽ không ngừng tăng nhanh cả số và chất lượng. Mỗi con người từng ngày, từng giờ luôn sống trong sự ràng buộc, chi phối của rất nhiều luật: Luật dân sự, Luật tố tụng dân sự, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Luật giao thông, Luật hôn nhân và gia đình, Luật đất đai, Luật cư trú, Luật lao động, Luật doanh nghiệp, Luật thuế, Luật giáo dục, Luật nhà ở... cùng biết bao quy định dưới luật.
Khổng Tử dạy: “Làm phải theo luật. Sống phải theo đạo”. Muốn làm theo luật phải hiểu luật. Hiểu luật là cách tự vệ tốt nhất. Hiểu luật để không phạm luật, để không bị kẻ cậy quyền bắt nạt, để tấn công kẻ vi phạm pháp luật bảo vệ mình, bảo vệ người khác. Nhiều người phạm luật bởi không biết, không hiểu luật. Song cũng không ít kẻ cố tình “lách luật”. Quốc gia nọ dưới quyền cai trị của một tên bạo chúa vô cùng tàn ác, dân tình oán hận muốn ra đi. Bạo chúa liền ban bố đạo luật: Ai rời bỏ đất nước cũng được, nhưng với điều kiện khi qua cửa ải phải nói một câu. Câu đó đúng bị chặt đầu, sai bị treo cổ. Như thế chắc không kẻ nào qua được. Nhưng không. Một đoàn người tới cửa ải, đồng thanh nói:  “Hãy treo cổ chúng tôi đi !”. Quan trấn ải không biết xử trí thế nào. Bởi nếu treo cổ, tức là họ nói đúng. Mà nói đúng, theo luật phải chặt đầu. Nếu chặt đầu, tức là họ nói sai. Mà nói sai, theo luật phải treo cổ. Bất lực, quan trấn ải đành phải cho cả đoàn người qua. Một câu nói chỉ có thể đúng, hoặc sai. Đúng, sai đều phải chết. Luật như thế tưởng đã quá chặt chẽ, vậy mà vẫn có kẽ hở để “lách” qua. Mới biết việc làm luật sao cho đủ, chặt chẽ, kín kẽ, cụ thể, chính xác, đồng bộ quả là khó và việc thực thi nghiêm minh pháp luật để từ đó tạo được tín, được uy càng khó hơn. Pháp luật là công cụ hữu hiệu để trị quốc. Luật phải được xác lập trên cơ sở của đạo và đạo phải dựa vào sự bảo đảm của luật. Trong luật có đạo và trong đạo có luật. Thước đo của cả luật và đạo là lòng dân. Mục đích của luật trước hết để răn đe, sau mới trừng trị. Thời nhà Tần chủ trương trừng trị nặng những tội nhẹ. Bởi tội nặng khó phạm, tội nhẹ dễ phạm nhưng cũng dễ tránh. Luật làm cho người ta bỏ cái dễ phạm mà không quên sợ cái khó phạm, đó là đạo của việc trị nước. Nếu tội nhỏ không sinh, tội lớn không mắc thì sẽ không loạn. Dùng hình phạt nặng trị tội nhẹ để cả tội nặng và tội nhẹ đều không phạm, như thế gọi là dùng hình phạt để lọai trừ hình phạt. Làm quan toà khi xét xử, phán quyết cần làm cho bị cáo biết lỗi nhận ra lỗi, biết tội nhận ra tội, thương xót họ, tìm cách cứu giúp họ chứ không nên hãnh diện về tài hùng biện của mình và tỏ ra mình nhiều quyền lực. Một viên chức chân chính của ngành luật pháp không thể bị ma lực của đồng tiền mua chuộc, cũng không thể bị sở hữu của các thế lực, hay chính khách, mà chỉ thuộc về công lý. Thời Xuân Thu, Lý Ly làm quan coi ngục đời Tấn Văn Công, vì nghe lời cáo sai, lại không tra xét kỹ đã giết nhầm một người nên vô cùng hối hận. Ông tự trói mình, tấu xin vua xử mình tội tử hình. Tống Văn Công rất xúc động, phán: “Cấp dưới của khanh sai, khanh lại nhận hết trách nhiệm đòi xử tội mình. Vậy khanh là cấp dưới của trẫm, khanh sai thì trẫm phải chịu tội ư?”. Lý Ly tâu:  “Chức trách của quan coi ngục được quy định rõ trong luật. Hạ thần làm sai để người khác chết oan thì phải chịu xử tội chết. Thần biết Hoàng thượng gia ân, nhưng pháp luật không thể không nghiêm, thần mong được toại nguyện”. Nói xong rút kiếm tự cắt cổ mình. Giữ luật nghiêm, nhưng không được lạm dụng pháp luật để đàn áp, để thực hiện mưu đồ phi chính, bất nghĩa hoặc bù lấp cho sự yếu kém, bất lực trong quản lý vận hành xã hội. Đảm bảo nghiêm minh chặt chẽ về pháp luật, đồng thời phải mở rộng dân chủ, giải phóng sự sáng tạo. Đã có thời do không kiểm soát khống chế nổi bệnh dại, lập tức người ta ra lệnh cấm nuôi chó. Thành tựu lớn của loài người trải qua bao nhiêu đời là thuần hoá được “khuyển”, “mã” từ hoang dã thành vật nuôi. Đó cũng là loài vật rất thông minh, rất trung thành và tình nghĩa với chủ, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, khi thịnh, lúc suy mà con người coi như bạn. Giết và cấm nuôi chó vừa phản khoa học vừa trái đạo lý. Nếu tư duy kiểu như thế thì điện giật chết nhiều người: cấm điện? Ôtô, xe máy làm ách tắc giao thông, gây tai nạn: cấm ôtô, xe máy? ... Do yếu kém, bất lực không quản được thì cấm. Cách làm đó là phạm luật và phản luật.
Thời Chiến Quốc, dân thành Phú Thứ có tập quán làm việc ban đêm. Quản Thục là quận thú ra lệnh cấm, vì làm đêm đốt lửa dễ gây hoả hoạn. Dân bất bình lắm, nhưng do mưu sinh nên họ vẫn lén lút làm đêm. Vì lén lút nên càng nhiều hoả hoạn. Khi quận thú Liêm Pha về thay, ông bãi bỏ lệnh cấm, cho dân được làm đêm, song nhà nào cũng phải có bể nước để kịp thời dập lửa khi cháy. Dân phấn khởi nghiêm chỉnh chấp hành, không có hoả hoạn mà kinh tế phồn thịnh. Muốn quản lý điều hành quốc gia bằng luật pháp thì phải đủ luật, luật phải đồng bộ, phải phù hợp với thực tế, đặc biệt phải nghiêm. Phạm luật phải xử theo luật, bất luận là ai, hoàng đế hay thảo dân. Không biết dụng luật, dụng luật không nghiêm gây bất bình trong xã hội khiến kỷ cương rệu rã, đất nước suy vong, trách nhiệm thuộc những người đứng đầu bộ máy công quyền, đứng đầu quốc gia và cũng phải xử theo luật. Có như thế nước mới thịnh, dân mới an.
Với cộng đồng: Cộng đồng hẹp là gia đình, dòng tộc, rộng là quốc gia, quốc tế. Karl Marx viết: “Con người là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Trong đó bản thân luôn là chủ thể. Vì vậy tìm hiểu, phân tích, đánh giá đúng bản thân là không thể không làm. Hơn thế, phải làm thật nghiêm túc và khách quan. Người ta thường có thói quen sống theo bản năng, ít khi tự phân tích chính mình, ít dám nhìn thẳng vào bản chất mình mổ xẻ cho kỹ, tìm ra hết để biết tất cả cái tốt, cái xấu, công và tội. Suy cho cùng thì ai cũng có tốt, có xấu, có công, có tội, mà trước hết là tội với chính bản thân mình, thậm chí hành hạ và giết chết nhân cách của chính mình. Càng về già càng có điều kiện sống nhiều bằng suy nghĩ và càng thấy rõ sự hãnh tiến, háo danh, hám lợi, kèn cựa, ghen ghét, đố kỵ, tham lam của mình trước đây sao mà lố bịch, mà hèn hạ, càng thấy xót xa ân hận và tủi hổ. Bởi vậy mà muốn khám phá mình hơn, muốn hiểu mình hơn và muốn sống lương thiện hơn. Một lần Tử Lộ hỏi Khổng Tử: “Ở làng nếu có người được tất cả dân chúng ca tụng thì đó là người thế nào ?”. Khổng Tử đáp: “Đó không phải người hiền”. Tử Lộ lại hỏi: “ Nếu có người bị tất cả dân chúng ghét, thì đó là người thế nào ?”. Khổng Tử đáp: “Đó cũng không phải người hiền”. “ Vậy thế nào là người hiền ?”. “ Ai được người thiện ưa và người bất thiện ghét thì đó là người hiền”. Bơỉ thế muốn hiểu mình hãy tự hỏi ai yêu mình và ai ghét mình? Họ là người thế nào? Nghĩa là phải hiểu mình và hiểu người. Không hiểu mình, hiểu người sẽ không hiểu được đời. Không biết dùng chính mình thì sao biết dùng người. Ta là ai? Ta là gì? Ta thế nào? Tốt? Xấu? Mạnh? Yếu? Sở trường? Sở đoản? Dũng? Hèn? Quân tử? Tiểu nhân ?... Nghĩa là tất cả những gì thuộc bản chất, bản lĩnh, bản tính mà ta có hoặc không có đều phải biết. Để từ đó tự thấy ta có thể dùng được vào việc gì và việc gì không thể dùng. Ở đời, tài năng mỗi người có lớn và có nhỏ. Tài nhỏ không dùng vào việc lớn được và tài lớn cũng chưa chắc đã làm được việc nhỏ. Sau khi lấy thiên hạ, Lưu Bang hỏi Hàn Tín: “Ngươi xem ta có thể thống lĩnh đại quân trăm vạn được không?”. Hàn Tín đáp: “Không”. “Chục vạn quân được không?”. “Không”.
“Vậy bao nhiêu?”. “Một vạn thôi”. “Còn ngươi?”. “Càng nhiều càng tốt”. “Vậy sao ta làm vua, ngươi chỉ làm tướng?”. “Vì bệ hạ không giỏi cầm quân, nhưng giỏi cầm tướng”. Phải chăng Hàn Tín đúng. Bởi Lưu Bang đã dùng được cả Hàn Tín, Trương Lương, Tiêu Hà... Ở đời có người chỉ huy tướng được, chứ không chỉ huy quân được và ngược lại. Đối với bậc minh chủ, nếu có được lòng dân và nhân tài sẽ có được thiên hạ. Lưu Bang là thế. Ta có thể thấy cái cách ngàn bước mà không thấy được lông mi của mình. Không phải cái cách ngàn bước gần, cái lông mi xa, mà bởi không thể làm được. Giống như lực sĩ sức địch muôn người cũng không thể nhấc nổi chính mình. Cho nên phải biết tài nào dùng việc nấy. Giỏi dụng binh thì để chỉ huy quân đội. Tài công nghệ thì dùng chế tạo máy móc. Thông thạo buôn bán thì dùng phát triển thương mại. Sắc sảo biện luận thì dùng ngoại giao. Hiểu mình thì biết dùng mình. Hiểu người thì biết dùng người. Không biết được cái yếu của mình, của người sẽ không thấy được cái mạnh của mình, của người. Không thấy được cái yếu trong cái mạnh và không thấy được cái mạnh trong cái yếu của mình, của người sẽ không biết dùng mình và dùng người. Hiểu mình, hiểu người thì những thứ tưởng bỏ đi cũng có thể dùng vào việc hữu ích. Thời Thiên chuyên nghề trộm cắp, rất giỏi đào ngạch chui tường được các hảo hán Lương Sơn Bạc thâu nạp dùng ngay cái biệt tài ấy và anh ta trở thành một lính thám báo siêu hạng. Hơn thế, đại ca Triều Cái trong “Thuỷ hử” còn biết dùng người điếc làm hầu cận, người câm làm giao liên, người què coi chòi canh... Cho nên dùng người không nhất thiết nhằm vào kẻ đã thành danh, mà cái chính là phải hiểu và phát hiện ra tài năng tiềm ẩn ở họ. Giống như “thiên lý mã”, khi còn nằm dưới gầm xe chở muối, Bá Nhạ đã phát hiện ra những tố chất của ngựa quý bởi Bá Nhạ biết xem tướng ngựa. Nếu không có Bá Nhạ thì “thiên lý mã” sao có cơ hội bộc lộ khả năng phi thường của nó. Thời Chiến Quốc, chư hầu tranh bá, nhiều minh chủ ý thức được tầm quan trọng của việc dụng nhân tài. Lỗ Trang Công phá lệ dùng Tào Quệ mà đánh bại đối thủ mạnh hơn mình. Tề Hoàn Công bỏ qua thù oán cá nhân dùng Quản Trọng làm Tướng quốc mà trở nên siêu cường. Ngô Vương dùng Tôn Vũ giỏi binh thư nên đại phá quân Sở... Đặc biệt nước Tần, hầu như đời nào cũng biết trọng dụng nhân tài. Biết Lý Bách Hề là bậc siêu phàm từng làm quan đại phu nước Ngu không may sa cơ, Tần Mục Công tìm mọi cách cứu giúp đưa về phong làm Thừa tướng. Lý Bách Hề không phụ ân nghĩa ấy hết lòng phò tá. Ông còn quy tụ và tiến cử cho Tần Mục Công nhiều hiền tài nổi tiếng khác như Kiển Thúc, Mạnh Minh Thị, Do Dư... Nhờ thế nước Tần trở nên hùng mạnh hai lần đại phá quân Tấn, băt Tây Nhung thần phục, trở thành một trong năm bá chủ. Đời Tần Hiếu Công rất mực đề cao và trọng dụng Thương Ưởng làm quân sư. Nhờ những cải cách triệt để của Thương Ưởng mà nước Tần đứng đầu bẩy nước hùng mạnh nhất thời Chiến Quốc. Đời Tần Huệ Vương biết lôi kéo, dùng Cam Mậu người nước Sở mà đánh bại nhiều chư hầu lớn ở phía Đông mở mang bờ cõi. Đời Tần Vũ Vương biết Trương Nghi có tầm chiến lược phong chức Tướng quốc, dùng làm thuyết khách đem “Kế hợp tung” để phá “Kế liên hoành” của đối phương. Đời Tần Chiêu Vương biết Phạm Duy là nhân tài bị nước Ngụy hãm hại đã tìm cách cứu đưa về phong làm tướng. Nhờ “Kế viễn giao cận công” do Phạm Duy đề xuất mà đánh bại nhiều đối thủ... Đến đời Tần Thuỷ Hoàng biết trọng dụng Trịnh Quốc người nước Hàn, một chuyên gia rất giỏi về thuỷ lợi. Nhờ kế sách của Trịnh Quốc mà cả vùng Quan Trung khô cằn trở nên phì nhiêu, màu mỡ, năm nào cũng được mùa lớn. Biết lôi kéo, trọng dụng Lý Tư đến từ nước Sở, Uý Liêm đến từ nước Ngụy, rồi Mông Điền,Vương Tiễn và nhiều người tài khác phong làm tướng... Nhờ thế mà diệt Tề, phá Sở... thống nhất thiên hạ.
Hiểu người, thắng người đã khó, nhưng hiểu mình và thắng mình còn khó hơn nhiều. Bởi bí mật lớn nhất ở đời là chính mình và kẻ thù lớn nhất ở đời cũng là chính mình. Lão Tử dạy: “Lo thắng người thì loạn. Lo thắng mình thì an”. Có những thứ chỉ mở mắt không thấy được, phải mở lòng, mở óc, mở tâm mới thấy. Đại vương Trần Hưng Đạo viết: “Hiểu được mình là anh. Thắng được mình là hùng” quả chí lý và sâu sắc. Hiểu mình luôn kèm với rèn mình. Khổng Tử dạy: “Tu thân - Tề gia - Trị quốc - Bình thiên hạ”. Ngài coi cộng đồng nhỏ là gia đình. Gia đình giữ vai trò cầu nối giữa bản thân với cộng đồng lớn quốc gia, quốc tế. Tu thân là rèn luyện bản thân. Tề gia là giữ hoà thuận gia đình mình. Trị quốc bình thiên hạ là trách nhiệm với Tổ quốc. Tu thân để đạt chính nhân quân tử. Quân tử là tiêu chí đạo đức, nhân cách của những người biết sống có đạo. Người quân tử thấy sai thì sửa chứ không bội ước. Chết cho cái chí của mình chứ quyết không đem cái chí của mình làm nô lệ. Chịu chết chứ không chịu nhục, không chịu làm điều ác. Không xu phụ quyền thế. Không khiếp sợ uy vũ. Tìm minh chủ tôn phò chứ quyết không luồn cúi kẻ thất phu. Coi trọng tình nghĩa, không tham lam vật chất. Nhân hậu, khoan dung, không để bụng những sai lầm của người khác. Lấy trung thành, tín, thật làm chủ đích. Người quân tử buồn vì không có khả năng chứ không buồn vì người khác không biết đến mình. Người quân tử không vì lời nói của người mà dùng người, cũng không bỏ người vì lời nói của họ. Người quân tử cho rằng nếu làm điều gì không ngay thẳng thì dù nhìn thấy đứa trẻ con cũng nơm nớp lo sợ. Nếu không làm điều gì khuất tất thì dẫu trước ngàn vạn binh đao cũng vẫn ung dung thanh thản. Người quân tử hàng ngày tự xét mình nhiều lần, thấy không làm điều gì xấu thì không phải lo. Người quân tử thản nhiên thư thái, thắng không kiêu, bại không nản, nhiều khi lấy bại làm vinh chứ không coi là nhục nếu mục đích việc làm đó cao cả. Người quân tử không nghĩ điều ác, không nói lời ác, không làm việc ác. Người quân tử oán lớn cũng quên, nhưng ơn nhỏ cũng nhớ. Người quân tử dù bị người phụ chứ không phụ người. Người quân tử phù suy, không phù thịnh và cho rằng cảm phục, học được ở người thất bại nhiều hơn ở kẻ thành công. Vẻ đăm chiêu của người thất bại có chiều sâu nội tâm và toát lên sự đau khổ cao quý. Còn gương mặt kẻ thành công chỉ đầy tự mãn, thậm chí kiêu ngạo. Người quân tử coi bản thân là cái gốc của gia đình. Gia đình là cái căn bản của xã hội. Việc nước chẳng qua là việc nhà mở rộng. Có tu thân mới tề gia trị quốc bình thiên hạ được. Bởi thế tu thân là nền tảng của đạo. Phàm ở đời cái gì gắn với nhân cách đều có đạo. Văn có đạo văn, võ có đạo võ, nghề nào có đạo của nghề ấy,cây bút, thanh kiếm, đồng tiền, cây đàn, cho đến thưởng trà, thưởng rượu, hiếu, hỷ, cương, nhu, nhẫn, nộ... đều mang hồn của đạo. Có người chỉ biết nghề mà không hiểu đạo của nghề. Cầm trong tay cây bút, thanh kiếm, đồng tiền mà không hiểu đạo của cây bút, thanh kiếm, đồng tiền. Có hai loại “chính đạo” và “tà đạo”. Ứng với “chính đạo” là chính tâm. Ứng với “tà đạo” là tà tâm. Phải phân biệt để hướng “chính đạo” loại “tà đạo”. Bao trùm là “Đạo làm người”. Đó là Đại đạo. Trong Đại đạo gồm nhiều tiểu đạo: với Tổ quốc: Đạo trung; với tổ tiên, ông bà, cha mẹ: Đạo hiếu; với vợ chồng: Đạo nghĩa; với anh chị em: Đạo đễ; với con cháu: Đạo từ; với thày cô giáo: Đạo sư phụ; với bầu bạn: Đạo hữu; với đồng loại: Đạo nhân... Sống phải có đạo. Vô đạo không phải sống mà chỉ là tồn tại. Hàn Phi Tử viết: “Mắt không nhìn thấy mặt mình được nên phải lấy gương để soi. Cái khôn không tự biết mình được nên phải lấy cái đạo để sửa mình. Cái gương không có tội vì đã thấy những chỗ sẹo. Cái đạo không có thù oán vì đã làm rõ cái sai. Con mắt không có gương thì không thể dựa vào cái gì để sửa râu mày. Con người không có đạo thì không biết dựa vào đâu để sửa nhân cách”.
  
Đạo làm người rất trọng nhân cách. Nhân cách là biểu tượng giá trị cuộc sống mỗi người. Cao thượng hay thấp hèn, quân tử hay tiểu nhân đều thể hiện ở nhân cách. Có thể mất mọi thứ nhưng không thể mất nhân cách. Lịch sử đã để lại không ít gương sáng của những nhân cách lớn: triều Tây Hán, Tiêu Hà giữ chức Tể tướng phò Lưu Bang. Năm 206 TCN giúp Lưu Bang đánh chiếm Hàm Dương, kinh đô nước Tần.. Vàng bạc châu báu, gác tía lầu son, mỹ nữ tuyệt sắc giai nhân không làm ông rung động. Ông lệnh cho thuộc hạ phải thu thập, bảo quản toàn bộ hồ sơ lưu trữ đem đến cho ông đọc. Nhờ thế ông nắm được mọi tình hình từ đất đai, địa hình sông núi, dân số lao động, kinh tế, chính trị, văn hoá, phong tục tập quán... giúp Lưu Bang hoạch định kế sách trị quốc.
Xét thấy Tiêu Hà có nhiều công lớn, suốt đời thanh bạch, vua Hán Cao Tổ ban lệnh cho Tiêu Hà được chọn vùng đất nào trù phú để vua ban. Chần chừ mãi, nhà vua thúc ép Tiêu Hà mới chọn mảnh đất cằn cỗi ở vùng quê hẻo lánh dựng nhà cho gia đình mình. Nhà rất bình thường, chẳng có tường bao, cổng kín. Bạn bè không hiểu ý ông, hỏi, Tiêu Hà đáp: “Tôi thân làm Tể tướng, nếu vì xây dựng nhà riêng mà phải đuổi dân đi nơi khác thì sao xứng đáng là Tể tướng. Tôi chọn nơi đất cằn này sống sẽ có rất nhiều điều lợi. Thứ nhất, là giáo dục con cháu phải biết lao động cần cù và tiết kiệm, chúng sẽ sớm trở thành người lương thiện. Hai là, không phải lo nghĩ về sau con cháu tranh giành của cải, cũng chẳng lo kẻ có quyền thế cướp đoạt.”. Con cháu của Tiêu Hà tuân theo lời ông dạy luôn giữ được nếp sống nghèo mà trong sạch, yên phận giữ mình không màng danh lợi. Bởi thế trong cuộc đấu tranh giành quyền lực nhiều công thần khác như Hàn Tín, Bành Việt đều gặp họa bị chết thê thảm nhưng gia đình dòng tộc Tiêu Hà vẫn bình yên vô sự.
Năm 283 TCN, Liêm Pha nổi tiếng là tướng giỏi được vua phong làm Thượng khanh. Lạn Tương Như là quan văn có tài ngoại giao, dùng thuyết pháp mà lấy được ngọc báu trở về nước Triệu, phò tá vua Triệu hợp hội với nước Tần thắng lợi, có công lớn được vua ban chức ngôi vị trên Liêm Pha. Vốn tự đắc, Liêm Pha hận Lạn Tương Như, cho rằng mình đổ xương máu chốn sa trường, Tương Như chỉ là mọt sách uốn ba tấc lưỡi mà được đặt trên mình nên tìm cách rêu rao nói xấu hạ nhục Tương Như. Tương Như biết nhưng vẫn luôn nhẫn nhịn cốt giữ hoà khí. Mỗi khi thiết triều ông thường cáo ốm để Liêm Pha không phải đứng sau mình. Có lần Tương Như ngồi trên xe ra cửa, Liêm Pha chặn đường. Tương Như tìm lối khác tránh bạn. Lính dưới quyền ông ức quá trách ông sao sợ, chịu hèn. Ông khuyên giải, hỏi: “Liêm tướng quân so với vua Tần, ai đáng sợ?”. Quân sĩ đáp: “Liêm tướng quân sao so được với vua Tần ạ”. Tương Như nói: “Khi xưa ta phò tá Triệu Vương tới Mãnh Trì hội kiến với vua Tần, nhục mạ quần thần họ, mà vua Tần không dám ỷ thế làm nhục vua ta. Vậy nay lẽ nào ta sợ Liêm Pha. Ta tránh Liêm tướng quân cốt để giữ hoà khí. Bởi nước Tần sở dĩ không dám diễu võ dương oai với nước Triệu vì Triệu đang có ta và Liêm Tướng Quân. Nay nếu ta và Liêm Tướng Quân bất hoà thì liệu Tần Vương có để cho nước Triệu yên không? Sở dĩ ta nhún nhường là vì ta đặt lợi ích xã tắc lên trên, ân oán cá nhân xuống dưới đó thôi”.
Liêm Pha biết chuyện ấy trong lòng vô cùng ân hận. Ông chọn một ngày, cởi trần ôm gậy đến nhà Lạn Tương Như nhận lỗi và xin được Tương Như đánh đòn trị tội. Lạn Tương Như hết sức cảm động, nước mắt lã chã ôm vị tướng già mời ngồi lên ghế. Từ đó hai đại quan văn và võ xoá bỏ hết hiềm khích, thề sống chết có nhau vì giang sơn xã tắc.
Lý Tích là người tài trí, sâu sắc. Ông theo Lý Mật khởi nghĩa chống nhà Tuỳ, rồi sau đó cùng Lý Mật theo Lý Uyên lập ra nhà Đường. Về sau do Lý Mật bất mãn không phục nhà Đường về chuyện phong thưởng nên âm mưu tạo phản bị Lý Uyên (vua Đường Cao Tổ) giết chết. Lý Mật bị giết, nhiều bạn cũ của Lý Mật sợ liên luỵ đã xa lánh gia đình Lý Mật, thậm tệ hơn còn lợi dụng cơ hội nói xấu, đổ lỗi cho Lý Mật để lấy lòng Đường Cao Tổ. Lý Tích không làm vậy.  Biết Lý Mật bị giết, ông kêu khóc thảm thiết, còn liều chết dâng biểu nói rõ mình là bạn thân của Lý Mật và xin được nhận lo mai táng cho Lý Mật. Đường Cao Tổ rất cảm phục tấm lòng thuỷ chung tình nghĩa với bạn của Lý Tích, không những không trị tội mà còn phong cho Lý Tích chức Lai Quốc công. Là người trí tuệ, mưu lược, một lòng trung, Lý Tích giúp triều Đường nhiều việc lớn được Lý Thái Tông (Lý Thế Dân) rất tin cậy bổ nhiệm làm Bình Bộ Thượng thư. Ông phò cả ba đời vua Đường từ Cao Tổ, Thái Tông và Cao Tông mà không hề phạm lỗi.
Đạo làm người coi trọng bản lĩnh. Bản lĩnh là chỗ dựa của nhân cách, luôn gắn bó, hỗ trợ nhau và không thể thiếu trong cộc sống. Bản lĩnh giúp nhân cách trụ vững trước bất kỳ áp lực nào.
Năm 548 TCN, tướng quốc nước Tề là Thôi Trữ. Thôi Trữ giết vua Tề là Trang Công để thâu tóm quyền lực. Ông ta gọi quan Thái sử Bá đến. Thôi Trữ nói: “Nhất định ông phải viết Tiên Vương chết vì bệnh nặng”. Thái sử Bá nói: “Lịch sử không thể ghi chép hồ đồ. Viết theo sự thật là bổn phận của Thái sử”. Thôi Trữ không ngờ Thái sử Bá dám chống lệnh, giận giữ hỏi: “Ông định viết thế nào?”. Thái sử Bá đáp: “Tôi viết xong rồi, ông sẽ biết ngay thôi”. Thôi Trữ cầm lên đọc thấy rõ: “Hạ ngũ nguyệt Thôi Trữ thích quân” (Vào tháng 5 mùa hạ, Thôi Trữ giết vua). Thôi Trữ nói: “Ông phải viết khác đi, nếu không ta giết ông”. Thái sử Bá lắc đâù: “Giết thì giết, ta không thể viết khác”. Thôi Trữ liền chém đầu Thái sử Bá.
   Thái sử Trọng là em trai Thái sử Bá nghe tin anh bị giết liền đến thay chức vụ của anh. Thôi Trữ kinh ngạc vì thấy Trọng vẫn viết đúng như anh trai mình, liền rít lên: “Ông không biết Thái sử Bá đã bị chém hay sao?”.Trọng đáp: “Thái sử chỉ sợ viết không trung thực chứ không sợ chết”. Thôi Trữ lại chém Thái sử Trọng. Thái sử Thúc, em trai Thái sử Bá và Thái sử Trọng được vào thay. Ông cũng chép đúng như hai anh của mình và lại bị chém. Thái sử Quý, em út của ba Thái sử trên vào thay, vẫn viết: “Hạ ngũ nguyệt Thôi Trữ thích quân”. Viết xong ông nói với Thôi Trữ: “Ông càng giết người thì càng chứng tỏ sự tàn bạo. Nếu tôi không viết thì người khác sẽ viết và thiên hạ cũng biết. Ông có thể giết chết Thái sử nhưng không thể giết chết được sự thật”. Thôi Trữ nghe xong không dám giết. Bản lĩnh các quan Thái sử chân chính đã bảo vệ nhân cách cao thượng của họ khiến hôn quân bạo chúa Thôi Trữ phải sợ.
Đạo làm người coi trọng lòng nhân ái, vị tha. “Nhân chi sơ, tính bản thiện” - người ta khi mới sinh ra đều tốt. Rồi sau đó do tác động và ảnh hưởng của môi trường sống khiến bản chất biến đổi theo: tốt, xấu, thiện, ác, trung, gian... xuất hiện đan xen nhau. Tuy nhiên quy luật chung đều hướng thiện.Cho nên ta ghét điều xấu nhưng không căm ghét người làm điều xấu. Bởi nhất thời hồ đồ họ mắc sai lầm, nhưng nếu bản chất không xấu họ có thể ăn năn hối hận sửa chữa để trở nên người tốt, thậm chí tốt hơn cả ta. Vì thế, ta nên thương họ, giúp họ chứ không ghét bỏ, xa lánh họ. Bản tính con người là hiếu thắng. Thắng người ta thấy vui. Song cũng có niềm vui lớn hơn, cao thượng hơn, khi ta tự nguyện giúp người khác hơn ta, thắng ta. Để người khác vui và ta cũng vui vì ta đã đem niềm vui đến cho người khác.Thay vì chỉ trích phê phán người khác bằng việc hãy đặt ta vào địa vị và hoàn cảnh của họ xem sao rồi hãy phán xét. Phải luôn cố, gắng, nhường, nhịn, thậm chí phải nhẫn để tránh làm tổn hại, hoặc tổn thương người khác. Trong cuộc sống ai chẳng có ân và oán. Có ơn thì “cảm ơn” và đền ơn, đó là việc rất dễ làm, nhưng còn oán? “Oan oan tương báo” sẽ không bao giờ hoá giải được, trái lại oán hận càng tăng và hậu hại sẽ khôn lường. Để giải oán rất cần đến lòng vị tha nhân ái. Điều đó khó, song hông phải không làm được nếu thật sự tâm ta thiện. “Nhân bất thập toàn”, ở đời người nào cũng có thể mắc lỗi. Phải biết nhận lỗi và khắc phục. “Đố ai tránh khỏi lỗi lầm. Nếu mà biết sửa thì tâm sẽ nhàn”. Không nên oán trách buộc tội cho người khác, hãy cố hiểu và tha thứ cho họ. Tất nhiên rất khó, đòi hỏi phải có tâm hồn cao cả và sức tự chủ mạnh mẽ vượt qua mọi tự ái và quyền lợi cá nhân, phải trung thực, trước hết trung thực với chính mình mới làm được. Đáng lẽ buộc tội, chỉ trích ai thì thay vì ta ráng hiểu họ, tìm nguyên nhân hành vi của họ. Đó là cái gốc của tình nghĩa. Đến như Thượng Đế còn đợi cho tới khi con người chết đi rồi mới xét công, luận tội. Tại sao chúng ta lại không độ lượng được như Ngài? Ở đời mỗi người một số phận, một hoàn cảnh rất khác nhau: giầu nghèo, sang hèn, học vấn cao thấp,uy phong quyền lực, tiểu tốt vô danh... Bất luận là người thế nào cũng có thể so sánh được với nhau bằng một đơn vị chung, đó là Tâm. Thiện, ác, chính, tà, trung, gian, tốt, xấu... đều được thể hiện qua tâm. Sướng hay khổ cũng ở tâm. Tâm nhàn thì sướng, tâm không nhàn thì khổ. Chỉ một cái tâm khổ thì dù có bao nhiêu cái sướng khác cũng không bù đắp nổi. Tâm còn là thước đo để khẳng định giá trị cuộc sống mỗi người. Nhà thơ Nazim Hitmet viết: “Chốn cung đình đâu chỉ toàn thánh thiện. Nơi thảo dân không chỉ có con người”. Đúng. Bất luận đẳng cấp nào, nếu “tâm” thiện là thánh và “tâm” ác là quỷ. “Tâm” không phụ thuộc bởi địa vị, chức tước. Tự đánh giá mình, hay đánh giá người khác đều phải lấy tâm làm căn cứ. Hãy đánh giá nhau bằng tâm và đối xử với nhau bằng tình. Tâm lớn thì tình nặng và ngược lại. Ở đời mỗi người đều phải xây dựng cho mình cái nền móng của cuộc sống. Nền móng vững vàng nhất là tâm và tình. Hai thứ đó giống như kim cương không chịu tác động bởi thời gian, bởi tiền tài danh vọng, bởi chức tước, quyền lực... Dù hoàn cảnh khó khăn, thử thách khắc nghiệt thế nào, tâm và tình vẫn luôn toả sáng. Hãy rộng lòng nhân ái vị tha kể cả với những kẻ đã từng gieo thù rắc oán cho ta, hành hạ ta đủ cách. Nếu suy nghĩ ở khía cạnh khác thì vô tình họ đã giúp ta việc rất lớn. Đó là họ kích thích, thôi thúc để vì tự ái và tự trọng buộc ta phải quyết chí vươn lên hơn hẳn con người cũ của ta. Ta được như hôm nay, một phần là nhờ họ. Vì thế những ý nghĩ trừng phạt, trả thù tội ác do họ đã gây cho ta là không nên. Ta sống để trở thành người lương thiện chứ không phải sống để gieo thêm tội ác. Đời luôn cần ở ta lòng từ bi bác ái. Vả lại họ không hoàn toàn là người bỏ đi. Phạm sai lầm không có nghĩa thành vô dụng. Mọi thứ ở đời đều có thể biến đổi và cải tạo được. Hàn Tín lúc hàn vi phải nuốt hận chui qua háng gã hàng thịt, sau này theo Lưu Bang làm tới Tể tướng ông cho người tìm bằng được kẻ đã làm nhục mình trước đây, không phải để trả oán, mà phong cho chức quan nhỏ để đền ơn. Bởi nhờ nỗi nhục đó Hàn Tín mới phẫn chí tu rèn lo nghiệp lớn.
Năm 1038, Nùng Tồn Phúc thủ lĩnh châu Thảng Do nổi lên xưng đế chống triều đình lập ra nước Trường Sinh ở vùng núi Tây Bắc. Năm sau, vua Lý Thái Tông đích thân cầm quân đi đánh dẹp bắt bọn Nùng Tồn Phúc về Thăng Long xử chém. Nùng Thế Cao là con Nùng Tồn Phúc trốn thoát. Sau này Lý Thái Tông rộng lòng nhân ái phủ dụ phong làm quan và Nùng Thế Cao trở thành tướng trấn ải biên cương.
Giăng Pon II, 84 tuổi, 28 năm làm giáo hoàng, bị ám sát hụt. Sau khi lành vết thương ông vào tận bệnh viện thăm kẻ tội phạm và tuyên bố tha thứ cho hắn. Những người như thế quả là có lòng nhân ái vĩ đại. Đức Phật tổ Thích-ca Mầu-ni dạy: “Oán không bao giờ diệt nổi oán. Chỉ có tình thương mới hoá giải được thôi”. Cuộc đời ngắn ngủi. Khi nhắm mắt xuôi tay người nào cũng thế, đều chỉ mang theo hai thứ: Phước đức và tội lỗi. Phước đức gắn liền với lời ca ngợi và lòng biết ơn. Tội lỗi đi kèm với sự khinh bỉ và nỗi oán hận. Mọi thứ khác như quyền lực, giầu sang... đều vô nghĩa. Không ai giúp mình, che chở, nâng đỡ và cứu mình bằng chính phước đức của mình. Cũng chẳng có ai hành hạ và cướp đi của mình tất cả bằng chính tội lỗi của mình. Bởi thế hãy cố tu rèn tích góp phước đức và loại dần tội lỗi. Phước đức làm cho con người đáng yêu khi đang sống, đáng kính khi đã chết, còn tội lỗi thì ngược lại. Ông cha ta thường dạy: “Của cho là của được”. “Của được” chính là phước đức.
 
Đạo làm người coi trọng đức khiêm tốn và cầu thị. Trong sách “Luận ngữ” Khổng Tử viết: “Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu độn. Công lao to hơn thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung. Sức khoẻ hơn người nên giữ bằng sự nhút nhát. Giầu có bốn bể nên giữ bằng vẻ nhún nhường”. Không có việc gì nhỏ đối với bộ óc lớn. Ngọn đèn lồng lắc lư trong nhà thờ cổ ở một làng quê nước Ý đã gợi giúp Galilée phát minh ra đồng hồ thiên văn. Bồn nước tràn giúp Arsimede tìm ra định luật về áp lực của nước. Lý Bách Hề viết: “Bậc trí giả nghĩ nghìn điều cũng có điều hỏng. Kẻ ngu đần nghĩ nghìn điều cũng có điều được. Cho nên dẫu là lời của thánh nhân hay của phạm nhân vẫn có thể cân nhắc mà nghe, dùng”. Chí sĩ phương Đông thường ghét phô trương, ưa ẩn dật. Khôn ngoan phải làm vẻ dại khờ. Đấy là cái đạo để bảo toàn thân danh của các bậc hiền triết. Lão Tử dạy: “Đại sảo nhược chuyết”. Tức là kẻ tuyệt khéo phải giả vụng về. Biết bao danh nhân tìm mọi cách dấu mình, nuôi chí lớn ngầm chọn minh chủ. Khương Tử Nha (nhà Chu) vào rừng ngồi câu cá ở Bàn Thạch đón vận nước. Khổng Minh Gia Cát Lượng (Tam Quốc) lấy hiệu Ngọa Long (Rồng ngủ) nằm đọc sách trên lều cỏ chờ thời. Bàng Thống lấy hiệu Phục Phượng (Phượng hoàng ẩn mình) trong núi suy ngẫm đợi hào kiệt. Dao Quảng Hiếu (triều Minh) khoác áo cà sa nương nhờ cửa Phật tìm cơ hội... Người không tham lợi nhỏ thường chí lớn. Người biết giả vờ ngây dại thường thuộc loại phi phàm, như Tôn Tẫn giả điên, Câu Tiễn giả hèn chịu nhục mới làm nên đại nghiệp. Chỉ những kẻ tiểu nhân mới thích phô trương. Chỉ đồ dởm, đồ giả mới đem rùm beng quảng cáo trước thiên hạ. Xưa nay các bậc đại thánh, đại nhân thường mai danh ẩn tích. Văn Thiên Tường (triều Tống) viết: “Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh. Thuỷ bất tại thâm phục long tắc linh” (Núi không cần cao nếu có tiên ở sẽ nổi danh. Nước không cần sâu nếu có rồng phục sẽ thiêng). Nhà văn Nguyễn Hiến Lê là tác giả hơn trăm bộ sách về lịch sử, triết học, văn học, giáo dục... Khi Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu trao giải “Văn chương quốc gia” trị giá mấy chục lượng vàng, ông từ chối không nhận với lý do mục đích ông viết không phải để dự thi nhận thưởng. Ông khuyên đem số vàng đó giúp các nạn nhân chiến tranh. Chỉ những nhân cách lớn mới làm được như thế, còn những kẻ tầm thường thì chạy chọt hết cửa này, cửa nọ để có giải. Viết được vài ba cuốn sách đã háo danh thích nổi tiếng, bỏ tiền thuê những bồi bút viết bài lăng-xê lên báo, giới thiệu trên truyền hình, tổ chức triển lãm bản thảo viết tay, tự coi mình như vĩ nhân. Những việc như thế rất không nên. Bởi “thùng rỗng kêu to” chỉ có thể lừa được những người nông cạn, nhẹ dạ mà thôi.
Ở đời “hữu xạ tất nên hương”. Đã là yếu nhân lịch sử thì dù đứng đâu cũng là chỗ đứng của lịch sử và ngược lại. Sách cổ “Hàn Thi ngoại truyện” có đoạn: “Là bậc thông minh tài trí chớ nên khinh ngạo. Có sức khoẻ chớ nên đè nén người. Còn kém thì phải học, chưa biết thì phải hỏi. Đối với họ hàng, làng xóm phải biết giữ cái trật tự trên dưới. Đối với người nhiều tuổi phải biết giữ cái lễ con, em. Đối với người bằng lứa phải giữ cái tình bầu bạn. Đối với trẻ thơ phải dạy bảo, khoan dung. Tâm, tình luôn rộng rãi thênh thang như trời đất bao la”. Socrat luôn nói với học trò: “Thày chỉ biết chắc một điều là: Thày không biết gì hết”. Giáo huấn về đạo khiêm tốn, cầu thị Tăng Tử viết: “Giầu mà không khinh nghèo. Có địa vị cao sang mà biết trọng kẻ thế cô. Học nhiều thông thái mà biết hỏi, biết nghe kẻ ít học bất tài. Nhiều tuổi từng trải mà biết đề cao kẻ còn trẻ ngây thơ. Bị xúc phạm mà biết kiềm chế. Đó là cái đạo nên theo”. Trong lịch sử, hầu hết các triều đại oanh liệt đều dưới quyền các bậc minh chủ biết khiêm tốn cầu thị tìm chọn nhân tài làm quân sư và chịu nghe can gián. Vua Thành Thang (nhà Thương) có quân sư Y Zoãn. Chu Văn Vương (nhà Chu) có Khương Tử Nha. Tề Hoàn Công (Tề) có Quản Trọng. Ngô Phù Sai (Ngô) có Ngũ Tử Tư. Câu Tiễn (Việt) có Phạm Lãi. Tần Hiếu Công (Tần) có Thương Ưởng. Lưu Bang (Hán) có Trương Lương. Tào Tháo (Ngụy) có Tuân Úc. Tôn Quyền (Ngô) có Lỗ Túc... Ở nước ta, An Dương Vương có Cao Lỗ. Lý Nam Đế có Triệu Quang Phục. Đinh Bộ Lĩnh có Lê Hoàn. Lê Đại Hành có đại sư Khuông Việt. Lý Công Uẩn có thiền sư Vạn Hạnh. Trần Thái Tông có Trần Thủ Độ. Lê Lợi có Nguyễn Trãi...
Lịch sử cũng chứng minh những ông vua không nghe can gián phải chuốc họa. Hạng Vũ (nhà Hán) bỏ ngoài tai lời khuyên của Phạm Tăng nên đại bại phải tự vẫn chết. Ngu Công (nước Ngu) không nghe lời can ngăn của Cung Chi Kỳ mà mất nước. Ở nước ta sau thời Hùng Vương nhiều lần Triệu Đà huy động đại binh đánh chiếm Âu Lạc đều thất bại vì Âu Lạc có thành Cổ Loa kiên cố và có nỏ thần. Triệu Đà dùng thủ đoạn giả hoà hiếu sai con trai là Trọng Thuỷ sang cầu thân, thực ra là làm gián điệp. Trọng Thuỷ yêu công chúa Mỵ Châu. Triệu Đà xin cầu hôn Mỵ Châu cho con trai. Thục Phán An Dương Vương đem việc này hỏi Cao Lỗ, vị tướng thân cận, người chỉ huy xây thành Cổ Loa. Cao Lỗ can: “Xưa nay chưa thấy kẻ bại trận lại xin cho con trai ở rể. Chẳng qua họ muốn biết cách bố phòng Cổ Loa mà thôi. Việc ngàn lần không nên”. An Dương Vương nổi giận: “Nhà Triệu muốn mượn hôn nhân để hoá bỏ hiềm khích ta lẽ nào không thuận. Ông già rồi, ta cho ông về nghỉ”. Cao Lỗ điềm nhiên: “Việc đúng sai có đất trời soi sáng. Thần không ân hận khi nói điều phải”. Vì không nghe lời can gián của Cao Lỗ, An Dương Vương mắc mưu giặc và mất nước.
Đời Trần Duệ Tông nổi cộm nhất là chiến tranh với Chiêm Thành. Năm 1376 quân Chiêm sang đánh Hoá Châu (Nghệ An), vua Duệ Tông đích thân đem quân trừng phạt. Năm 1377 đến Quy Nhơn đánh lấy đồn Thạch Kiều rồi tiến vào Đồ Bàn, kinh đô nước Chiêm. Chế Bồng Nga chiếm giữ ở ngoài thành, cho người trá hàng tâu với Duệ Tông rằng Chế Bồng Nga đã chạy trốn xin tiến binh ngay. Duệ Tông tưởng thật lệnh đánh vào thành. Đại tướng dưới quyền là Đỗ Lễ can gián mãi mà vua không nghe. Khi quân Việt tới chân thành Đồ Bàn, bất ngờ quân Chiêm từ bốn phía đổ ra vây chặt. Quân Việt thua to. Trần Duệ Tông chết trong đám hỗn chiến.
Hồ Quý Ly có người cô lấy vua Trần Minh Tông. Nghệ Tông là con Minh Tông nên có họ thân về đằng ngoại với Hồ Quý Ly. Nghệ Tông trao Quý Ly thâu tóm quyền lực và hắn ngang nhiên lộng hành. Quý Ly xui giục Nghệ Tông giết Phế Đế, cháu gọi Nghệ Tông là bác, lập con Nghệ Tông là Thuận Tông lên ngôi. Những tướng lĩnh và quan đại thần ai không cùng cánh với Quý Ly cũng bị giết theo. Quý Ly gả con gái cho Thuận Tông, hắn trở nên bố vợ vua và càng tác quái. Từ năm 1390 sau khi Trần Khát Chân giết chết Chế Bồng Nga, đỡ phải lo đối phó với giặc ngoài Quý Ly càng thao túng triều chính. Các bậc trung thần kể cả hoàng tử, thân vương đều bị Quý Ly ép Thượng hoàng Nghệ Tông giết. Sĩ phu có người lo lắng cho đất nước dâng sớ tâu với Thượng hoàng về sự lộng hành của Quý Ly. Thượng hoàng liền chuyển sớ đó cho Quý Ly xem. Quý Ly lập tức trả thù. Thượng hoàng Nghệ Tông vì thiếu đức khiêm tốn cầu thị, xa bỏ trung thần, không nghe can gián, ưa phỉnh nịnh, dùng gian tế giết cả con cháu họ hàng đến nỗi cơ đồ nhà Trần sụp đổ rơi vào tay Hồ Quý Ly vào năm 1400. Mới biết mọi độc quyền dù tư tưởng hay hành động đều là nguyên nhân dẫn đến suy vong. Cho nên hãy mở rộng lòng mình, tiếp nhận giao lưu trao đổi, tôn trọng và giải phóng sự sáng tạo, có như thế mới thâu nạp được trí tuệ khắp thiên hạ. Trong cuộc sống người tài thường tự trọng, thích suy nghĩ độc lập, quyết định độc lập và dám chịu trách nhiệm; người tài rất ghét bị áp đặt, bắt nghĩ, bắt nói, bắt làm theo người khác như cỗ máy; người tài thích trao đổi bình đẳng, thắng thua không quan tâm, nhưng thật giả, đúng sai phải rõ; người tài thích lối sống quân tử tôn thờ chân lý và sẵn sàng chết vì tri kỷ; người tài trọng nhân cách luôn quan sát, suy ngẫm, chiêm nghiệm để hoàn thiện mình. Trên bia đá đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, tiến sĩ Thân Nhân Trung viết: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì nước mạnh rồi lên cao. Nguyên khí suy thì nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế, minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên”.
Đạo làm người khuyên cảnh giác với tham vọng. Ở đời sự huỷ hoại nhân cách con người nhanh nhất là tham vọng, đặc biệt tham quyền lực và tiền bạc. Tham vọng là sự ham muốn đến mê muội, điên cuồng, vượt qua giới hạn đạo lý. Để có tiền người ta có thể bất chấp pháp luật kể cả giết người. Để có quyền lực người ta có thể dùng mọi thủ đoạn kể cả hèn hạ và tàn nhẫn với ngay người thân thích ruột thịt của mình nhằm đạt mục đích. Vì quyền lực mà cha con, anh em, họ hàng cùng huyết thống giết chết nhau tranh giành ngôi báu. Vì quyền lực mà lạnh lùng nhẫn tâm tru di ba họ người khác. Vì quyền lực mà các phe phái sát phạt chém giết nhau. Vì quyền lực mà nạn binh đao bùng nổ xương chất thành núi, máu chảy thành sông.Vì quyền lực mà dùng đủ mưu mô nham hiểm, tàn bạo sát phạt lẫn nhau, gieo thù rắc oán, đời này kiếp khác, mà khốn nạn thay, nhiều khi chỉ tranh cướp nhau cái “quyền” để người khác sai khiến như nô lệ, “quyền” để bợ đỡ xu nịnh một cách hèn hạ, “quyền” vênh váo tự phụ lố bịch đến không còn nhân cách. Ban đầu thì những suy nghĩ và hành động của họ cũng theo sự cuốn hút trong sáng, thậm chí chấp nhận hy sinh vì lý tưởng tốt đẹp. Nhưng rồi sự cám dỗ như ma quỷ của quyền lực và tiền bạc khiến cái động cơ đáng trân trọng đó không còn nữa. Trước hết là không dám chấp nhận hy sinh, thu vén cá nhân, tính toán thiệt hơn... Dần dần toàn bộ suy nghĩ và việc làm đều bị chi phối bởi quyền lực và danh lợi. Luôn tự coi mình là quan trọng và thích được người khác nể sợ mình. Phát biểu gì, làm gì, đứng đâu cũng thích nổi hơn người khác, lấn át người khác. Thích đi đứng khệnh khạng, thích điều mình nói ra được những kẻ xu nịnh gọi là “lời vàng ngọc” nhằm chỉ đạo thiên hạ. Thích được phỏng vấn, được lên hình trên ti-vi, in ảnh vào mặt báo, đến dự họp được mời ngồi ghế trên, được giới thiệu trịnh trọng đầy đủ mọi chức vụ, được đứng dậy khẽ cúi đầu đáp lại những tràng vỗ tay như đập mẹt... Nghĩa là rất khoái được tung hô, tâng bốc. Háo danh, hám lợi. Hãy coi chừng! Nhiễm bệnh rồi đấy. Một thứ bệnh xã hội nan y vô phương cứu chữa. Đó là “bệnh nghiện quyền lực”, nguy hiểm hơn cả Sida, Aids và tệ hại hơn cả ma tuý. Bởi các bệnh đó còn có thuốc, có các trung tâm cai nghiện, chứ bệnh này không thể chữa trị, rất dễ chết, mà chết nhục nhã. Bởi “bệnh nghiện quyền lực” dẫn người ta đến tham vọng mù quáng. Tham vọng mù quáng dễ làm người ta đánh mất mình và bán mình cho quyền lực. Thiện tính bị diệt, ác tính nổi lên và trong tuyệt vọng điên cuồng người ta có thể bất chấp thủ đoạn dù nham hiểm thâm độc để đạt tham vọng. Cứ thế quyền lực và tiền bạc như một thứ vi trùng ngấm dần vào máu làm huỷ hoại “tâm”, tê liệt “tình” khiến họ dần dần biến chất. Cũng vì quyền lực và tiền bạc mà các băng nhóm tội phạm sẵn sàng tổ chức những cuộc tàn sát đẫm máu thanh toán nhau, vũ trang chống lại chính phủ và lập nhiều đường dây buôn bán ma tuý xuyên quốc gia, reo rắc tội ác, huỷ hoại sự sống biết bao sinh mạng.
Theo Khổng Tử, quyền lực và tiền bạc không có trong tiêu chí của thành đạt và hạnh phúc. Những người đã từng một thời nắm quyền lực khi về già khó mà có được sự thanh thản trong lòng. Bởi dù ít hay nhiều, vô tình hay cố ý đều có thể đã làm tổn hại đến người khác. Mà làm tổn hại người khác bằng đao kiếm, súng đạn hay quyền lực thì cũng như nhau cả thôi. Nhiều khi quyền lực và tiền bạc là họa chứ không phải phúc. Ở Hàng Châu (Trung Quốc) có một pho tượng bằng sắt lở lói. Đó là tượng Tần Cối quỳ lạy trước mộ Nhạc Phi. Không biết do ai dựng lên và cũng không ai phá đi. Người đời mỗi khi tới đó thắp hương khấn vái cúi lạy Nhạc Phi thì lại lấy roi quất, hoặc dùng tay tát vào mặt Tần Cối. Nhạc Phi là danh tướng, mưu lược gia kiệt suất trí dũng song toàn. Thuở nhỏ gia cảnh bần hàn, cuộc sống khổ cực. Là người có chí lớn, nghiên cứu binh thư, văn chương, thiên văn, địa lý. Tính tình cương nghị quả cảm. Khi nhập ngũ mới 19 tuổi, được mẹ xăm vào lưng bốn chữ: “Tinh trung báo quốc” để nhắc nhở con. Ông là vị tướng tung hoành chốn sa trường và chiến thắng hiển hách. Nhưng do Tống Cao Tông, vị vua hèn yếu nghe lời tên gian thần Tần Cối vu cho ông tội “mạc tu hữu” (có lẽ) mưu làm phản và giết hại Nhạc Phi khi ấy ông mới 39 tuổi. Tần Cối người Kiến Khang, xuất thân quan lại, 25 tuổi làm Giám sát ngự sử, rồi Ngự sử trung thừa triều Nam Tống. Là kẻ đầy tham vọng quyền lực, bằng mọi thủ đoạn hắn leo tới chức Tể tướng. Để củng cố địa vị Tần Cối lập mưu giết hại các vị đại thần có công khai quốc như Nhạc Phi,Trương Tuấn, Hàn Thế Trung. Giữ chức Tể tướng 18 năm hắn thay phó Tể tướng 18 người. Quan trong triều ai không cùng vây cánh là hắn giết. Tượng Tần Cối bằng sắt hoen rỉ quỳ lạy Nhạc Phi bị mọi người khinh bỉ là thể hiện lòng dân, là sự đánh giá của hậu thế và lịch sử. Đó cũng chính là họa, là kết cục nhục nhã và bi thảm của những kẻ tham quyền lực. Quyền lực có cả “ma”, cả “lực”, phúc họa liền kề, là con dao hai lưỡi. Có thể kẻ nắm quyền lực lại chết bởi quyền lực do mình nắm. Quyền lực càng lớn kẻ thù càng nhiều, sự báo thù, báo ứng càng thê thảm. Chỉ sử dụng quyền lực vì mục đích cao cả mới tránh được họa mà thôi. Thật ra, nếu nghĩ cho kỹ, suy cho cùng thì kẻ nắm trong tay đầy quyền lực đâu phải sung sướng. Bởi quyền lực càng cao sự cô đơn cũng càng lớn. Như Hoàng đế, mọi lời nói, việc làm đều nhất nhất theo lễ nghi định sẵn. Sống trong sự tung hô “Vạn tuế !” vang trời nhưng không có được một lời tri kỷ. Cho nên trước có Tôn Quyền, sau có Càn Long đối với thuộc hạ trong công việc là vua tôi, ngoài công việc là huynh đệ, gắn bó như bầu bạn. Đó là tư chất của bậc minh quân biết đạo, hiểu đời. Một hôm trời nóng nực các viện sĩ hàn lâm biên soạn bộ “Tứ khố toàn thư” cởi cả áo ra làm việc. Đúng lúc đó Càn Long đến trong bộ thường phục.Thấy Hoàng đế mọi người chạy trốn. Kỷ Hiểu Cương bị cận thị nặng không tìm ra áo đành chui xuống gầm bàn. Lát sau nóng quá không chịu nổi thò đầu ra hỏi: “ Lão già đã đi chưa ?”. Càn Long tóm được, hỏi: “Ông vô lễ thế, sao dám gọi ta là lão già ?”. Kỷ Hiểu Cương nhanh trí diễn giải: “Tâu bệ hạ, vạn tuế - tức là đại lão. Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia - tức là thủ. Hoàng đế còn là con Trời - tức là thiên tử. Lão-đầu-tử tức là lão già. Hạ thần gọi như thế là tỏ sự tôn kính đấy ạ”. Vua Càn Long phì cười ôm lấy Kỷ Hiểu Cương lòng rất vui. Mới biết làm Hoàng đế cũng khổ lắm chứ. Nhiều khi rất cần sự giao lưu chân tình, cởi mở không tuân theo phép tắc gò bó, không nhuốm màu sắc chính trị, nhưng đâu có dễ.
Đạo làm người khuyên phải biết “điểm dừng”.  Ở đời ai cũng có mong muốn. Muốn dồi dào sức khoẻ, muốn có thế quyền để đảm đương trọng trách, muốn giầu sang phú quý, muốn học vấn cao, muốn gia đình yên ấm hạnh phúc, muốn nổi tiếng, muốn nhục dục...Tất cả những mong muốn đó đều rất chính đáng, rất tốt đẹp nếu không vượt quá “giới hạn” đạo lý biến thành tham vọng. Dù tư hữu, ích kỷ là bản năng bẩm sinh. Đẻ ra đã giành vú mẹ, miệng ngậm một, tay giữ một. Lớn lên tranh ăn, chọn phần to, phần nhiều, không ăn cũng không chịu nhường cho ai. Trưởng thành thì tranh công, giành quyền, thu vén tư lợi. Tuy nhiên vẫn phải biết đâu là “giới hạn”. Cái “giới hạn” ấy chính là “điểm dừng”.Trong mỗi con người đều có đức tài và mong muốn. Đem đức tài trừ mong muốn, nếu kết quả “dương”, có nghĩa mong muốn trong “giới hạn”. Nếu kết quả “âm” có nghĩa mong muốn quá lớn đã biến thành tham vọng. Loại người này cần phải xem xét thận trọng. Bởi đức tài nhỏ, tham vọng lớn thì phần “âm” thiếu hụt ấy anh ta sẽ bù lấp bằng thủ đoạn tiểu nhân kể cả tội ác để đạt mục đích.
Khi có một ưu thế nào đấy người ta thường quá tự tin, thích phô trương mà không lường kết cục. Có sức thường cậy khoẻ, chủ quan nên khi bị cảm nặng khó cứu. Có xe mới thích phóng vượt người khác mà bị tai nạn. Có nhẫn kim cương, dây chuyền mặt đá quý, đồng hồ vàng thích phô trương mà bị trấn cướp. Cho nên biết “điểm dừng” là rất quan trọng. Nói gì, làm gì cũng cần phải tính đến “giới hạn” và chọn đúng “điểm dừng”. Đang ở thế thượng phong phải nghĩ ngay tới lúc hạ mạt. Nhưng ở đời đã mấy ai làm được. Thường khi giầu rất ít nghĩ lúc mình sẽ nghèo. Khi đang thịnh rất ít nghĩ đến lúc mình suy. Khi đang chói lọi hào quang rất ít nghĩ mình thất thế. Khi đang xinh đẹp rất ít nghĩ đến lúc mình già nua xấu xí. Khi giầu, tiền tiêu không hết, thấy người nghèo dù đó là ruột thịt cũng tỏ ra khinh mạn. Khi đang lắm chức nhiều quyền thì hống hách, tự cho phép mình được sai khiến cấp dưới, coi họ như đầy tớ, mặc dù nhiều người trong số đó nhân cách và trí tuệ hơn mình. Khi “còn duyên” nhan sắc đang độ nghiêng nước, nghiêng thành bất luận chàng trai nào tới cầu hôn cũng cự tuyệt một cách ngạo mạn. Rồi tới một ngày nào đó gã nhà giầu phá sản sa cơ. “Ngôi sao” nọ thân bại danh liệt bởi những vụ tai tiếng. Ngài quan to bị kỷ luật mất chức. Cô gái nọ “hết duyên” quá lứa ế chồng. Bấy giờ dẫu có tính đến “giới hạn” tìm “điểm dừng” thì đã muộn. Cho nên ở đời đã biết cách leo cao thì cũng phải giỏi tìm đường xuống thấp. Cáo khôn có ba hang, người khôn biết một đường lên phải biết ba đường xuống. “Quan nhất thời” ngồi mãi trên ghế quyền lực sao được. Không chọn “điểm dừng” không biết cách xuống sẽ ngã. Mà leo càng cao, ngã càng đau. Ở đời không phải cứ “tham” cái gì là hy vọng sẽ được cái ấy. Thực tế có người chẳng mong cái gì thì lại được tất cả. Trong khi có kẻ muốn có tất cả thì lại chẳng được cái gì. Ca dao có câu: “Số giầu mang đến dửng dưng. Lọ là con mắt tráo trưng mới giầu”. Học thuyết “Vô vi” của Lão Tử chủ trương: “ Cái gì đến khắc sẽ đến. Cái gì không đến khắc không đến. Cái gì đi nhất định sẽ đi”. “Vô vi” là không bị ham muốn và tham vọng chi phối. Người tính không bằng Trời tính. Trời cho tất cả, rồi Trời lại lấy đi tất cả nếu sống không hợp ý Trời, nghĩa là “tâm” không thiện, “tình” không thấu. Luật nhân quả nghiêm khắc lắm. Có kẻ khi sa cơ thất thế, thân bại danh liệt mới sám hối rằng: “Mọi sự khốn nạn của đời tôi là do tôi tham quá. Tham đến mù quáng, tham đến mức biến mọi người thành kẻ thù. Để bây giờ mất tất cả lại còn phải sống trong tủi nhục và cừu hận. Giá mà trước đây tôi biết đúng lúc phải dừng”. Quyền lực và tiền bạc có sức quyến rũ đầy ma quái đồng thời cũng là cạm bẫy vô cùng nguy hiểm. Không tỉnh táo khôn ngoan, không biết “giới hạn” cần phải dừng thì hậu họa sẽ khôn lường. Xưa nay chỉ những bậc đại nhân, đại trí mới nhìn ra điều ấy và chủ động rút khỏi quyền lực đúng lúc. Biết rằng bắt được thỏ rồi giết chó, bắn được chim rồi đốt cung, chủ soái là kẻ chung hoạn nạn chứ không thể cùng hưởng vinh quang. “Địch quốc xong, công thần diệt” đó là bản chất của bạo chúa nên giúp Lưu Bang thu được thiên hạ rồi Tiêu Hà, Trương Lương từ quan về quê hoặc vào núi ẩn dật sống đời tiên du vãng cảnh. Giúp Câu Tiễn diệt Ngô Phù Sai xong, Phạm Lãi thay tên đổi họ trốn sang nước Tề làm thương nhân lấy tiền giúp bầu bạn và người nghèo khó. Chu Văn An giữ chức Quốc Tử Giám tư nghiệp đời Trần Dụ Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ trạng nguyên làm quan đại thần đời Mạc Phúc Hải. Triều chính thối nát, lương dân đói khổ, hai ông dâng sớ đòi chém gian thần. Nhà vua không nghe. Phần thể hiện thái độ bất bình, phần phòng lo hậu họa, cả hai ông đều trả mũ áo rút khỏi chốn quyền lực về quê mở trường dạy học. Trong khi có người hoặc do không nhìn xa thấy rộng, hoặc vẫn bị tham vọng quyền lực tiền bạc cám dỗ nên nỗi phải chết thảm như Hàn Tín, Bành Việt, Văn Chủng, Lý Tư... Đến như Nguyễn Trãi, sau khi giúp Lê Lợi đánh tan giặc Minh xâm lược, thu phục thiên hạ, xin từ quan về vùng núi Côn Sơn ẩn dật. Vậy mà mấy năm sau vẫn bị bọn gian thần trong triều chính hãm hại bằng thảm án Lệ Chi Viên, bị tru di ba họ. Mới biết sự tàn bạo của quyền lực khủng khiếp thế nào. Đó là tiếng chuông cảnh tỉnh những ai vẫn u muội say mê quyền lực.
Xin hãy nghiền ngẫm Lão Tử. Ông sinh năm 570 TCN, còn có tên là Lý Nhĩ, quê Sơn Đông (đồng hương Khổng Tử), là quan Thái sử uyên bác, là nhà triết học đại danh đương thời, người mà Khổng Tử đánh giá cao và rất mực kính trọng. Học thuyết của Lão Tử lấy “Vô vi” làm gốc. Cơ sở để đạt được “Vô vi” là: “Vô dục”- Bớt, đến tiêu diệt tham lam, ham muốn. “Vô tranh”- Không tranh giành với ai thì cũng không ai tranh giành với mình. “Thủ thế”- Biết lùi để tiến. “Tri túc”- Biết thế nào là đủ để dừng. Nghĩ được vậy, làm được vậy lòng sẽ luôn thanh thản. Có lẽ nhờ thế Lão Tử thọ 160 tuổi mà vẫn minh mẫn.
   Người hiểu mình, hiểu đời phải biết cái gì mình làm được cái gì không. Khi nào nên làm, khi nào nên nghỉ. Lúc nào đời cần mình, lúc nào không mà rút lui đúng lúc. Có người không biết rút lui đúng lúc mà mạt vận. Đã rút rồi là thôi, là nghỉ. Trong sách “Luận ngữ” Khổng Tử viết: “ Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính”, ý khuyên những ai đã thoái vị rồi không nên can dự chính trường nữa. Lịch sử chứng minh ai đã rời khỏi vũ đài mà còn cố tham gia đại sự đều là vật cản. Đáng buồn thay có những người bệnh “nghiện quyền lực” đã ăn sâu vào tiềm thức tạo thành nếp sống khó sửa. Khi còn chức thì lúc nào cũng tỏ ra đầy quyền uy, oai phong bệ vệ. Khi hết quyền bỗng như quả bóng xẹp hơi, thấy thiếu tự tin, nhỏ bé đi, thấp hèn đi, nhiều lúc đi đứng, nói năng rất gượng gạo. Họ không biết rằng khi hết chức, hết quyền mình mới sống thật hơn, mới nhìn rõ mình hơn và nhìn rõ người khác hơn. Bởi thế rất cần tận dụng sự nghỉ ngơi để suy ngẫm. Nhưng không, vẫn cứ thích tỏ ra mình là người quan trọng. Không thể sống mà không có chức, không được đi họp, được ngồi ghế trên, được giới thiệu, được mời phát biểu và được mọi người vỗ tay lốp bốp. Vẫn cố bấu víu một chức việc gì đấy, một chút danh nào đấy, dù danh hờ, danh hão cũng được,dù quyền rơm vạ đá cũng được. Trong khi lớp trẻ từng ngày, từng giờ muốn đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, muốn khẳng định mình nhưng không được, bởi không có điều kiện, không có thực quyền. Vì thế, họ thiết tha mong các bác, các chú, các cô về rồi thì xin “các cụ” cứ nghỉ ngơi, đừng có tham lam ngáng chỗ nữa cho chúng cháu nhờ. Nhưng khốn nỗi “các cụ” kiên trì quá, không chịu, cứ bám.
Đạo làm người rất coi trọng truyền thống cội nguồn. Cội nguồn là gốc rễ nòi giống, tổ tiên, ông cha... nối tiếp đời này đến đời khác hình thành nếp nghĩ, cách sống, tập quán văn hoá mang đặc trưng dân tộc. Những tinh hoa truyền thống ấy được hậu thế nối nhau kế thừa, tiếp thu, giữ gìn, bổ sung, phát triển. Cội nguồn trước hết là quê hương nơi mình sinh ra hoặc cội rễ nòi giống, dòng tộc mình. Quê hương hẹp là làng xóm, rộng là Tổ quốc. Ở đấy hình ảnh và những sinh hoạt của cuộc sống đã in đậm trong tâm hồn mỗi người. Đó là cây đa đại thụ cành lá sum xuê che rợp cả một khoảng trời, thọ hàng ngàn năm tuổi, vững vàng, uy nghi, trầm tĩnh trước mọi thử thách và bão tố, biểu tượng của sức sống mãnh liệt, trường tồn và khí phách hiên ngang, là hồn thiêng đất trời và tinh hoa tụ hội. Cùng dòng họ với đề, đa là đặc trưng sự giác ngộ của Phật Tổ tạo chỗ dựa tâm linh. Dưới tán đa là trung tâm văn hoá, trao đổi thông tin và giao lưu tình cảm của biết bao thế hệ. Đó là những mái đình, mái chùa cổ kính, rêu phong ẩn mình giữa vườn cây quanh năm xanh tốt đầy ắp tiếng chim. Là đầm sen hoa đỏ rực chiều hè, toả hương thơm ngào ngạt quyện trong tiếng mõ đều đều, tiếng chuông thỉnh ngân nga. Đó là những cánh diều lơ lửng trên không và xa xa đàn trâu bò nhẩn nha gặm cỏ dọc triền đê uốn lượn quanh co theo dòng nước lững lờ trong vắt. Đó là những ngày đầu xuân tưng bừng hội làng, trống rong, cờ mở với biết bao nghi lễ thiêng liêng và tràn ngập tiếng reo hò, háo hức những trò vui truyền thống: múa lân, múa sư tư, kéo co, đấu vật, đu bay, leo cầu phao, bịt mắt bắt vịt, thi bơi, thi lặn, đua thuyền... Đó là những đêm trăng sáng rộn rã trống chèo, hoặc các liền anh, liền chị quan họ giao duyên lưu luyến không muốn “giã bạn” ra về. Đó là tiếng pháo đón giao thừa mừng năm mới, là bàn thờ gia tiên khói hương thơm ngát, là bánh chưng, giò lụa, giò mỡ, dưa hành, là phong bao lì-xì màu đỏ đựng tiền mừng tuổi, là những nụ cười tươi vui hồ hởi cùng những lời chúc tụng nhau, mời mọc nhau. Đó là tiếng gà gáy sớm báo bình minh, là mùi rơm mới quyện hương lúa giữa mùa thu hoạch. Đó là dáng mẹ già lam lũ, tần tảo, là những phiên chợ quê, quán lá liêu xiêu với đủ loại hàng nông sản bày la liệt. Đó là những món ăn độc đáo: bống trê kho tộ, chuối ốc nấu mẻ, cá rô rán dòn chấm nước mắm tiêu, cháo cá quả trộn rau thìa là thái nhỏ, ếch xào mướp non, lươn om củ chuối lá lốt, nộm thập cẩm... dùng với rượu đế nấu từ gạo nếp cái hoa vàng hạ thổ. Đó là những lúc thư nhàn cùng bạn tri âm ngồi thưởng trà nơi quán gió. Không gian yên vắng, thoáng mát, hoa đua nở, bướm vẽ vòng, ao thu gợn sóng, cá đớp chân bèo. Trà ngon ướp sen, tĩnh tâm thư thái thong thả thưởng thức tiền hương hậu vị, ngâm ngợi thơ hay, gật gù tâm đắc những điều chí lý trong đạo ngoài đời... Tất cả cảnh vật, con người, cuộc sống sinh hoạt, cho tới tín ngưỡng, ẩm thực...là những đặc trưng của quê hương. Tất cả đều có hồn - Hồn quê. Hồn quê quyện với hồn người tạo ra ngọn lửa thiêng liêng không bao giờ tắt. Con chim Việt trước khi tắt thở quay đầu về phuơng Nam mới chết. Thành ngữ có câu: “Cáo già tìm về núi”. Biết bao Việt kiều thời trai trẻ lăn lộn tung hoành nơi đất khách, lúc già vinh hoa phú quý không màng, lòng lúc nào cũng ngong ngóng hướng về cố hương. Không ít người mang bệnh trầm cảm bởi cô đơn và nỗi day dứt nhớ quê. Phẩm chất ấy thường chỉ thấy ở người phương Đông. Người phương Tây dù thèm muốn cũng không có được. Bởi mấy trăm năm bươn chải trong xã hội tư bản đầy biến động đã làm họ đứt hết cội rễ. Dòng máu nguyên gốc thuần chủng mất đi thay thế bằng sự pha tạp đa huyết thống.
Người Việt gắn liền quê hương với Tổ quốc tôn kính như Mẹ đẻ của mình. Mong muốn đem hết trí tuệ và sức lực cống hiến để xây dựng, sẵn sàng sả thân chiến đấu để bảo vệ, “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” (Hồ Chi Minh). Tràn ngập niềm tự hào mỗi khi nhắc tới những trận thắng oanh liệt của tổ tiên ông cha trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm; khi nghe những vần thơ hùng tráng: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư. Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm. Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” của danh tướng Lý Thường Kiệt; hoặc câu trả lời đanh thép của Trần Bình Trọng trước kẻ thù: “Ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”...
Tình cảm thiêng liêng với quê hương, Tổ quốc chính là truyền thống cội nguồn. Ca dao, tục ngũ có câu: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “Khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”, hoặc “ Thuận vợ, thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Người Việt rất coi trọng quan hệ dòng tộc và coi gia đình là sự sống còn của hạnh phúc. Nhìn vào lăng mộ, vào nhà thờ Tổ sẽ thấy được sự bề thế và gia giáo của một dòng tộc. Quan hệ trong dòng tộc tình cốt nhục được coi là nền tảng và vai vế thứ bậc là căn cứ để ứng xử. Khổng Tử dạy: “Cái mũ dù có cũ, có xấu cũng là thứ để đội trên đầu chứ không phải để đi dưới chân. Đôi giầy dù mới, dù đẹp cũng là thứ để đi dưới chân chứ không phải để đội trên đầu”. Nghĩa là phải có tôn ty trên dưới, nề nếp gia phong. Lòng nhân từ bác ái được dạy dỗ, tinh thần vượt khó hiếu học được khuyến khích, nhiều dòng họ lập văn chỉ khắc tên những người đỗ đạt cao thuộc huyết thống vào bia đá. Ngoài xã hội có quyền cao chức trọng thế nào, có vang danh nổi tiếng đến đâu nhưng trong dòng tộc vẫn phải rất khiêm nhường, phải tự biết mình là “mũ’ hay “giầy” mà cư xử, phải đặt hiếu đễ lên đầu. Nước có quốc pháp, nhà có gia pháp. Vua Tự Đức rất mê đi săn. Có lần mải săn về muộn, quá giờ vấn an mẹ già. Thuyền vừa cập bến bên Điện Thái Hoà, nhà vua vội lật đật đi vòng sang toà lầu của Thái hậu, lom khom đến trước ngự tiền, vội quỳ, hai tay kính cẩn dâng roi cho mẹ rồi nằm xuống chịu đòn. Nhà vua đã để lại cho hậu thế tấm gương về phép tắc gia giáo.
Đã là Đạo làm người thì bậc đế vương thế, mà thảo dân cũng vậy. Không chỉ cư xử lễ độ với cha mẹ mà với cả họ hàng ruột thịt, hàng xóm xa gần.Chúng ta ai cũng như ai, được tạo hoá sinh ra. Rồi do năng lực cá nhân, do phân công xã hội, do may rủi của số phận mà mỗi người làm một việc khác nhau, vị thế khác nhau, học vấn khác nhau, quyền lực và đời sống khác nhau. Dù gì đi nữa thì cũng đều là người, đều bình đẳng trước pháp luật, đều có chung cội nguồn hoặc cùng quê hương. Nếu may mắn phát đạt giầu có hay quyền cao chức trọng cũng đừng vênh váo với bà con họ hàng làng xóm, mà nên nghĩ cần làm gì để giúp đỡ mọi người, thế mới hợp đạo lý.
So với cộng đồng xã hội và dòng tộc, gia đình hẹp hơn nhiều nhưng lại không kém phần phức tạp, đặc biệt trong các mối quan hệ từ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cháu đều có vai trò rường cột của tổ ấm hạnh phúc, mà cái gốc là Đạo hiếu, Đạo nghĩa, Đạo đễ, Đạo từ... Một gia đình sống không có kỷ cương tất sẽ dẫn tới bi kịch, nhất là lúc về già. Đã là gia đình thì mọi người phải biết gắn kết nhau, thương yêu đùm bọc nhau, hoạn nạn cùng chia, phú quý cùng hưởng. Gia đình luuôn là cái nôi, là tổ ấm, là pháo đài, nâng đỡ, đùm bọc, che chở cho mỗi cuộc đời, là chốn ẩn náu cuối cùng cho mọi bất hạnh, song cũng là quyền lực tối cao giám sát lương tâm chặt chẽ và khắc nghiệt. Ngoài xã hội anh có thể phạm tội, bị kết án, thậm chí bị tù. Nhưng mãn hạn ra khỏi trại giam, com-lê, ca-vạt từ trên xe “xịn’ xuống, bước vào nhà hàng, khách sạn, lập tức các nhân viên niềm nở cúi đầu cung kính, hoặc tha hồ cười nói vui vẻ trong quán nhậu. Không ai biết anh đã từng là phạm nhân, bởi thế không hề cảm thấy lòng tự trọng bị tổn thương. Nhưng phạm tội với gia đình thì không. Dù chẳng toà nào xét xử, tuyên án, nhưng lương âm dằn vặt và suốt ngày đêm anh luôn bị ám ảnh bởi những ánh mắt của người thân từ bố, mẹ, vợ, con kể cả lân bang hàng xóm. Sống trong hoàn cảnh ấy đau lắm. Mà nỗi đau phải chịu một mình thì rất sâu, rất lâu.
Trong gia đình tình nghĩa vợ chồng đặc biệt quan trọng bởi nó ảnh hưởng và chi phối các mối quan hệ khác. Ở đời tình yêu và hôn nhân thuộc hai phạm trù khác nhau. Thống nhất chứ không đồng nhất. Có mấy ai thành công cả tình yêu lẫn hôn nhân. Bởi tiêu chí để chọn đối tượng trong hai lĩnh vực đó nhiều khi không giống nhau. Khi yêu anh thường bị quyến rũ bởi “hồn” người đẹp từ ánh mắt, nụ cười, mái tóc, dáng điệu, giọng nói, thời trang và tình yêu “sét đánh” khiến anh bị chinh phục. Nhưng để quyết định hôn nhân anh lại phải bình tĩnh tỉnh táo. Các yếu tố tình cảm lại phải được kiểm soát bằng lý trí để nhìn nhận ở người phụ nữ vẻ đẹp của tình thương chồng, thương con, biết cư xử có đạo lý, biết lo toan gia đình, cần cù chịu khó, bản lĩnh vững vàng trước mọi khó khăn. Đó là vẻ đẹp của bản chất thuộc cái “tâm” chứ không phải chỉ “hồn”, không phải hình thức bên ngoài son phấn chưng diện. Ở đời có nhiều vẻ đẹp lắm. Vấn đề là chọn loại nào để sống và loại nào để ngắm. Người phụ nữ khi chọn bạn đời cho hôn nhân của mình cũng thận trọng như vậy. Vợ chồng sống với nhau bằng đạo nghĩa. Nền tảng của đạo nghĩa là tình thương, trong đó có tình yêu. Lấy tình thương làm nền tảng tức là sự bền vững của hôn nhân sẽ được bảo đảm. Vì tình thương, không chỉ với bạn đời của mình, mà với cả con, cháu và những người thân trong gia đình, ta có thể vượt qua mọi khó khăn thử thách, có thể rộng lượng tha thứ cho nhau những lỗi lầm, nhẫn nhịn chịu đựng và giúp đỡ, chờ đợi nhau khi cần thiết để giữ gìn, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc lâu dài. Trong gia đình nếu người chồng là ngôi nhà, thì người vợ là nền móng. Phải học để biết làm chồng, làm bố, làm vợ, làm mẹ. Tự học, học ở sách báo, ở đời là chính, suy ngẫm về đạo lý rồi rút ra là chính. Trong cuộc sống có phụ nữ làm đàn bà rất giỏi, nhưng không biết làm vợ, làm mẹ. Có những chàng trai làm đàn ông thì được, nhưng không biết làm chồng, làm cha. Có người quản lý điều hành một cơ quan, doanh nghiệp lớn rất giỏi, nhưng quản lý điều hành cái gia đình nhỏ của mình lại rất dở. Xử lý các mối quan hệ xã hội thì bình tĩnh, sáng suốt và chính xác. Nhưng khi xử lý các mối quan hệ gia đình lại lúng túng, bị động, mò mẫm và dễ sai lầm. Vì sao? Vì việc xã hội có cách giải quyết của xã hội, chuyện nhà có cách giải quyết trong nhà. Vì sao? Vì từ lâu họ đã không đặt gia đình đúng với vị trí quan trọng của nó, vị trí có ý nghĩa quyết định sự sống còn của hạnh phúc, của cả cuộc đời, không chỉ với một, mà nhiều người. Không lấy tình thương làm nền tảng, không biết tới Đạo hiếu, Đạo nghĩa, Đạo đễ, Đạo từ... để cư xử. Không dành nhiều thời gian, tâm huyết suy nghĩ và làm việc cho nó như đã dành cho cơ quan, cho xã hội. Không nghĩ rằng lo để lại cho con cháu đất đai, nhà cửa, xe cộ, tiền vàng thậm chí cả quyền lực nữa là cần thiết, nhưng cao hơn thế, quan trọng hơn thế, sâu sắc hơn thế và an toàn hơn thế là để lại cho con cháu cuộc đời lương thiện, giầu nhân cách, được học hành, biết làm theo luật, sống theo đạo, không thù oán, nhiều ân nghĩa. Tài sản vật thể có thể xin, hoặc mua được, nhưng tài sản phi vật thể thì không, mà phải do chính mình làm ra bằng khổ công tu luyện và trân trọng giữ gìn. Ngoài đời thế, mà trong gia đình cũng thế, mỗi người đều có một thế giới riêng, đều có chuyện quan trọng phải nghĩ, phải lo, phải làm. Điều ấy là tất nhiên, hợp lý và phải đạo. Nhưng khi cái quan trọng của người này lại xa lạ với người kia thế là sẽ sống khác nhau, mầm mống của sự xa cách, thậm chí rạn nứt sẽ xuất hiện. Cùng một mái nhà mà có lúc cảm thấy xa lạ, thấy cô đơn, thấy không thể chia sẻ giãi bày với ai, do vậy mà nỗi buồn càng sâu. Bởi thế phải biết tạo ra bầu trời chung thì mới gắn kết nhau được. Bầu trời chung đó chính là những truyền thống cội nguồn, là những điều giáo huấn của Đạo làm người. Ở đời chính kiến có thể thay đổi tuỳ theo thế cuộc và nhận thức, nhưng Đạo làm người thì không. Trong chính trị có thể nhất thời liên minh với ma quỷ, nhưng trong kết bạn thì không, mà phải biết chọn người có đạo.
Tóm lại, người ta khi ở dương gian, tâm hồn và thân xác đều phải làm theo luật, sống theo đạo. Còn khi chết thì sao?


Chết
Theo tâm linh và thế giới quan Đạo Phật: chết là kết thúc cuộc sống trong dương gian chuyển đến âm gian; là tâm hồn rời khỏi thân xác chốn dương gian thành tâm linh nơi âm gian; là thân xác có hình hài ở dương gian sinh trưởng và thoái hoá theo quy luật sinh-lão-bệnh-tử thành thây xác bị phân huỷ mất hình hài theo tập quán của mỗi dân tộc, mỗi địa phương. Đời người không phải chỉ là kiếp sống của thể xác, từ khi sinh ra đến khi chết là hết. Và, con người cũng không phải chỉ có cái xác vật chất mà có cả linh hồn. Linh hồn ấy đã từng có trước khi sinh và sẽ tồn tại sau khi chết. Để rồi sau đó lại chuẩn bị cho tái sinh kiếp sau theo luân hồi dưới sự chi phối bởi nhân quả. Luật nhân quả cho rằng mọi hành vi tội lỗi của kiếp trước hay các kiếp trước gây ra thì kiếp này, kiếp sau và các kiếp sau phải gánh. Quả báo có thể giáng vào thân xác: làm mắt mù, tai điếc, tay cụt, chân què, bại liệt bán thân, toàn thân, hoặc tàn phế ... Giáng vào trí tuệ: làm cho ngu dốt, đần độn, ngớ ngẩn, ngây dại, điên khùng, mất trí nhớ... Giáng vào chức tước: làm cho đang quyền cao chức trọng bỗng gặp họa bị cách chức, tù đầy... Giáng vào danh dự: làm cho đang được mọi người trọng vọng, ma xui quỷ khiến thế nào gây tai tiếng khiến cho thân bại danh liệt... Giáng vào nghề nghiệp: làm cho không có nghề nghiệp, sống cầu bơ cầu bất lang thang vất vưởng. Hoặc nghề nghiệp giỏi như bác sĩ nổi danh vô ý gây tử vong bị tước giấy phép hành nghề và lâm vòng lao lý... Giáng vào hôn nhân: đang vui vẻ đầm ấm, hạnh phúc, bỗng do vợ, hoặc do chồng đổ đốn khiến ly tán, đau khổ... Giáng vào gia đình: làm cho vợ ốm liệt, hoặc chồng đui què, sinh ra con tàn phế hoặc hư hỏng, càn quấy, nghiện hút, can án bị tù tội. Trường hợp này thường là tổng hợp quả báo đối với các kiếp trước của cả người chồng, người vợ và con... Giáng vào sức khoẻ: thân thể nhỏ bé, còi cọc hoặc bắt mang bệnh tật suốt đời muốn chết cũng không được... Giáng vào tinh thần: làm cho lương tâm day dứt, đau khổ mất ngủ triền miên, mang bệnh trầm uất sống mà khổ hơn chết, hoặc cô đơn quả phụ không nơi nương tựa... Giáng vào kinh tế: đang ăn nên làm ra, thịnh vượng, giầu có bỗng sa cơ, phá sản... Giáng vào cha, mẹ, con cháu, người thân: làm cho xung khắc, bất hoà, thâm thù nhau, từ bỏ nhau, hoặc nghèo khổ, ốm đau, tai nạn, tù tội ... Nghĩa là quả báo có thể giáng xuống bất kỳ lúc nào, hoàn cảnh nào, lĩnh vực nào. Làm điều ác mà chưa thấy quả báo giáng, chớ vội mừng. Rồi sẽ lãnh đủ. Phần nhiều chúng ta khi lâm nghịch cảnh hay bị những đau khổ, bất công thường nghĩ mình oan ức vô tội mà phải chịu, chứ không nghĩ rằng mình đã từng gây ra đau khổ cho người khác ở các kiếp trước và bây giờ phải gánh quả báo. Quả báo không chỉ xét ở hành động gây nên tội lỗi, mà đặc biệt ở động lực bên trong của hành động ấy. Không phải chỉ xét ở kẻ trực tiếp gây tội mà đặc biệt kẻ chủ mưu của hành động ấy. Đồng thời cũng cần hiểu rằng dửng dưng nguội lạnh trước đau khổ bất hạnh của người khác cũng là tội ác và cũng phải chịu quả báo.
Nhân quả là bộ luật theo đó con người tự tạo nên thân phận tốt, xấu, sướng khổ, sang hèn, phúc họa, may rủi, vui buồn của chính mình. Là bộ luật đặt con người trong sự kiểm toả, trói buộc một cách tự giác để tu rèn bản thân nhằm không ngừng hoàn thiện mình.
Cho đến nay y học và các ngành khoa học khác vẫn chưa có tiếng nói chung trong khái niệm về chết và nổi lên hai khuynh hướng khác nhau. Một là, khi thây xác con người tan rữa thì đồng thời tâm hồn cũng không tồn tại. Hai là, sau khi chết thây xác tan rữa, tâm hồn vẫn tồn tại, nhưng chuyển sang một dạng khác là tâm linh.
Về khuynh hướng thứ hai, Phật Giáo đã đề cập tới từ trước công nguyên và mấy trăm năm gần đây khoa học tâm linh cũng đưa ra được nhiều minh chứng ở lĩnh vực này. Bằng thái độ khách quan đối với khoa học, cái gì chưa khẳng định thì không phủ định, chúng ta hãy coi đây là giả thuyết để cùng tiếp tục nghiên cứu.
Theo Phật Giáo và tâm linh học thế giới âm gian có bẩy tầng. Cao nhất là Thiên Giới (còn gọi Niết Bàn) và thấp nhất là Địa Ngục. Ở giữa có Thiên Thương, Tinh Giới, U Minh Giới... Thiên Giới là thế giới hạnh phúc dành cho những tâm linh đã giác ngộ hoàn toàn chỉ có chính thiện, không còn tà ác, chỉ có phước đức, không còn tội lỗi. Đạt Thiên Giới, tâm linh thoát khỏi vĩnh viễn luân hồi bể khổ sống chết. Đó cũng chính là cái đích cuối cùng tu luyện qua mọi kiếp. Địa Ngục là nơi tăm tối đáng sợ nhất của âm gian với tất cả sự khủng khiếp để hành hạ và đầy đoạ những tâm linh mà khi sống trên dương gian lòng đầy tham vọng, thù hận, nham hiểm, tàn bạo, phước đức quá nhỏ mà tội lỗi quá lớn. Riêng Địa Ngục cũng có ba tầng với các hình thức hành hạ đầy đọa khác nhau để trừng phạt những tâm linh phạm mức độ tội lỗi nặng nhẹ khác nhau. Những kẻ bị đầy dưới tầng cuối cùng Địa Ngục thì khó có hy vọng thoát ra khỏi để được luân hồi, mà dẫu có cũng chỉ làm kiếp sâu bọ hoặc súc vật, vĩnh viễn không bao giờ tới được Niết Bàn. Những tâm linh khác căn cứ vào mức độ tu luyện, vào phước đức và tội lỗi trên dương gian mà được trú ngụ ở tầng âm gian thích hợp để chờ được luân hồi theo sự chi phối của nhân quả. Nếu phước đức lớn, tội lỗi nhỏ thì sẽ tái sinh kiếp sau được sung sướng, danh giá và ngược lại. Kết thúc cuộc sống chốn dương gian không được âm gian tiếp nhận ngay, mà mọi tâm linh đều phải qua những thủ tục cần thiết. Đó là bẩy lần, mỗi lần cách nhau bẩy ngày, tâm linh tự khai báo những thông tin về bản thân, đặc biệt phải khai chi tiết về mọi suy nghĩ và hành vi thiện, ác đã làm trên dương gian, đồng thời chịu sự thẩm vấn của các quan cai quản ở âm gian. Nội dung, hình thức, phương thức khai báo và thẩm vấn sau mỗi lần càng nhiều hơn, cụ thể hơn, chi tiết hơn và chính xác hơn. Cho đến ngày thứ 49 sau khi chết, lần thẩm vấn cuối cùng được thực hiện tại điện Diêm Vương do đại diện của Thái Sơn Vương chủ trì. Ở đây có đặt một chiếc gương lớn gọi là Gương nghiệp chướng. Tâm linh được đưa tới trước gương và lập tức bao nhiêu việc làm thiện, ác khi còn sống trên dương gian đều lần lượt hiện lên với mọi chi tiết, hình ảnh, địa điểm, thời gian, không gian rất cụ thể, khiến bất kỳ tâm linh nào dù giảo hoạt đến đâu, những lần khai báo và thẩm vấn trước có tinh vi dối trá thế nào đều bị phanh phui ra hết. Trên cơ sở đó Diêm Vương sẽ xem xét tính trung thực và cân nhắc giữa phước đức với tội lỗi để quyết định cho tâm linh ấy được ở tầng âm gian nào. 49 ngày tâm linh trong trạng thái du hồn chờ đợi và thi hành việc khai báo, thẩm vấn, chưa được chấp nhận chính thức sang thế giới âm gian nên thường quyến luyến với người thân chốn dương gian, hiện về trong giấc mơ, trong bữa ăn, trong cả những sinh hoạt của người thân và người thân cũng thế, đều đặn cúng cơm, khấn cầu, trò chuyện với tâm linh quá cố như khi họ còn sống. Sau 49 ngày khi tâm linh được tiếp nhận, được biết mình ở tầng âm gian nào, nỗi nhớ dương gian mới nguôi ngoai, dần dần quen và chuyển hẳn sang thế giới âm gian. Trên dương gian người thân cũng thế, nhớ thương dịu đi, cuộc sống ổn định trở lại. Người ta sẽ chỉ dành tình cảm với thân nhân quá cố vào những ngày giỗ. Ngày chết gọi là ngày giỗ. Người phương Tây trọng ngày sinh, làm rất rôm rả, bánh trái, đèn nến, âm nhạc, ca hát, nhảy múa cùng những lời tốt đẹp ca ngợi chủ nhân. Người phương Đông coi trọng ngày giỗ nhưng không ồn ào phô trương. Việc đánh giá khẳng định người quá cố lấy phước đức và tội lỗi khi họ còn sống làm căn cứ. Như thế rất khách quan và chính xác bởi cuộc đời họ đã kết thúc. Văn hoá phương Đông quả là sâu sắc. Có lẽ vì thế mà khi đọc sách của các tác giả phương Tây ta hiểu được nhiều về học thuyết và triết lý, nhưng không thấm sâu đạo lý như đọc sách các tác giả phương Đông.
Trừ những tâm linh đắc pháp đạt Niết Bàn, hoặc những tâm linh bị đầy dưới Địa Ngục, còn lại đều được xét, sớm hay muộn cũng luân hồi tái sinh có khi trải qua hàng ngàn, hàng vạn kiếp. Nếu phước đức lớn, tội lỗi nhỏ thì kiếp tái sinh sau sẽ tốt hơn kiếp trước. Đối với mỗi người, kiếp trước và các kiếp trước của mình là gì? Kiếp sau và các kiếp sau của mình là gì? Luôn là điều bí mật. Kiếp này mình với vợ mình, với các con mình gắn bó nhau. Nhưng kiếp sau vợ mình, các con mình gắn bó với ai? Vẫn là điều bí mật. Chính cái điều bí mật ấy mới làm cho cuộc sống hấp dẫn. Nếu biết trước thì sẽ vô cùng buồn tẻ. Có điều dù bí mật đó là gì thì việc tu thân, gieo quả thiện chứ không gieo quả ác, tích phước đức, giảm tội lỗi vẫn là việc phải làm. Bởi Luật nhân quả vô cùng khắc nghiệt, dù ở dương gian hay âm gian đều thế.
Chết không phải là hết, cũng chẳng có gì phức tạp, chẳng có gì đáng sợ chỉ là chuyển từ dạng tồn tại này sang dạng tồn tại khác, tạm xa người thân đang sống nơi dương gian để gặp lại người thân đã quá cố chốn âm gian. Biết về chết ta sẽ không sợ chết. Cái làm ta sợ thường là những cái ta chưa biết. Bơi qua đoạn sông lạ - sợ, bởi không biết ở đấy có nước xoáy, có cá sấu không? Qua khu rừng lạ - sợ, bởi không biết có thú dữ không? Đi đêm sợ ma, bởi không biết ma thế nào? Lần đầu bước vào nhà người lạ thấy băn khoăn lo ngại, bởi không biết chủ nhân ra sao? ... Nhưng khi đã biết sẽ hết ngại, hết sợ, kể cả cái chết. Với mỗi kiếp trong luân hồi thì chỉ một lần sống và một lần chết. Sống phải học thì chết cũng phải học. Biết sống sao cho có nghĩa và cũng phải biết chết sao cho có nghĩa, nhất là sự sống chết của nhân cách. Lịch sử đã ghi lại không ít cái chết mà từ đó hậu thế có thể rút ra nhiều bài học sâu sắc. Lý Tư là nhà mưu lược nổi tiếng có nhiều công lớn phò tá giúp Tần Thuỷ Hoàng thống nhất thiên hạ đưa đất nước tới cường thịnh. Tội lớn của Lý Tư là bản chất hẹp hòi đố kỵ, ghen ghét Hàn Phi, bạn học với mình nhưng tài đức hơn hẳn. Bày mưu hãm hại Hàn Phi, xúi giục nhà vua đốt sách chôn nhà nho huỷ hoại nền văn hoá Trung Hoa. Tham vọng lớn khiến ông ta điên cuồng, phản bội cả chủ là Tần Thuỷ Hoàng vào hùa với Triệu Cao và Hồ Hợi truyền thánh chỉ giả khiến Phù Tô phải chết. Hồ Hợi nối ngôi tàn bạo phá cơ nghiệp nhà Tần. Về sau chính Triệu Cao và Hồ Hợi cấu kết với nhau khép Lý Tư tội làm phản phải tru di ba họ. Lý Tư bị chặt làm đôi bêu thây giữa chợ Hàm Dương. Cái chết của Lý Tư là sự báo ứng đối với một người có tài mà thất đức, tham lam, vụ lợi và hèn hạ.
Đổng Trác là tướng đại gian tặc cuối triều Đông Hán, tàn ác như hung thần. Dùng cực hình dã man: móc mắt, bỏ vạc dầu, chặt chân tay, thiêu, luộc sống đối với ai dám chống lại y. Cuối cùng bị Vương Doãn, một trung thần dùng Điêu Thuyền làm mỹ nhân kế và mượn tay Lã Bố giết chết. Cái chết của Đổng Trác cũng là sự báo ứng đối với những hành động bất nhân thất đức và mê muội vì gái của hắn.
Hạng Vũ là tướng tài, võ nghệ cao cường sức địch muôn người, cùng Lưu Bang nổi lên chống lại nhà Tần. Lưu Bang tài lực đều yếu hơn, nhưng nhờ có chí lại biết dùng người giỏi hơn mình như Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín mà lấy được thiên hạ. Trái lại Hạng Vũ do tự phụ, chủ quan, đặc biệt không biết dùng người. Có Phạm Tăng là quân sư tài giỏi mà cư xử bất nghĩa đến nỗi Phạm Tăng bỏ đi, rồi uất quá mà chết. Mất Phạm Tăng chỉ sau một trận huyết chiến với Lưu Bang bị đại bại khiến Hạng Vũ phải tự tử. Cái chết của Hạng Vũ là do chủ quan, tự phụ và không biết dùng người.
Quan Vân Trường trí dũng siêu phàm, lòng trung sắt đá. Chỉ vì Lục Tốn gửi thư tôn Quan Vân Trường như sư phụ sánh ngang Hàn Tín nhà Hán làm Vân Trường say sưa với lời phỉnh nịnh ấy mà mất cảnh giác, chủ quan, mắc mưu Lục Tốn vô danh bất tài đến nỗi bị chặt đầu. Cái chết của Quan Vân Trường là hậu quả của tính thích phỉnh nịnh.
Văn Chủng và Phạm Lãi đều là tướng tài và rất trung thành với Việt vương Câu Tiễn, cùng nếm trải biết bao vinh nhục để giúp Câu Tiễn thắng Ngô Phù Sai. Giành lại giang sơn rồi, Phạm Lãi biết Câu Tiễn sẽ diệt trung thần, ông từ quan sang Tề lập nghiệp, viết thư khuyên Văn Chủng đi với mình. Nhưng Văn Chủng không tin Câu Tiễn lại có thể vong ân bội nghĩa với những người có công khai quốc như mình, bỏ ngoài tai lời khuyên của Phạm Lãi. Quả nhiên đúng như Phạm Lãi dự đoán, Câu Tiễn vu Văn Chủng mưu phản và giết chết. Cái chết của Văn Chủng là kết cục của kẻ ngu tín, trung thành mù quáng, thiển cận không hiểu người, hiểu đời.
Nhưng cũng có cái chết để lại tiếng thơm muôn thuở như Thương Ưởng. Ông là Tể tướng nước Tần đời Tần Hiếu Công, một người có tầm nhìn xa thấy rộng, ứng dụng phép biện chứng của Kinh Dịch để phân tích thời cuộc giúp vua chủ trương thi hành những cải cách lớn: hạn nô, hạn điền đối với chủ nô. Khuyến khích khai hoang phát triển nông nghiệp, thương mại, thủ công nghiệp. Cho tự do mua bán đất đai và nhà nước thu thuế. Điều tra dân số để biết lực lượng lao động và khả năng điều động quân đội. Con trai đến tuổi trưởng thành phải tách hộ độc lập. Tăng cường tập quyền trung ương, thành lập và phân cấp quận huyện. Thống nhất văn tự, đo lường. Rời kinh đô về Hàm Dương để thuận tiện cho việc giữ nước và dựng nước. Trị quốc bằng luật. Thưởng phạt nghiêm minh. Có lần Thái tử phạm pháp, Thương Ưởng xử tội cắt mũi phó tướng của Thái tử và thích chữ lên mặt thày dạy Thái tử. Thái tử rất căm. Cải cách của ông tạo đà phát triển cho đất nước nhưng bị tầng lớp chủ nô và quý tộc quyết liệt chống đối. Khi vua băng hà, Thái tử lên ngôi hiệu là Tần Huệ Vương đã cấu kết với bọn chủ nô, quý tộc lập mưu vu tội trả thù ông. Thương Ưởng bị ngũ mã phanh thây. Có thể nói Thương Ưởng sống cho sự nghiệp cách tân chấn hưng đất nước và ông cũng chết cho sự nghiệp cao cả đó. Ông chết thảm bởi bọn đê hèn, song đó là chết vinh để lại tên tuổi lừng lẫy và tiếng vang muôn thuở. Ở đời kẻ thắng đâu phải vinh và người thua đâu phải nhục. Vấn đề là thắng vì cái gì và bại vì cái gì cũng như sống thế nào và chết thế nào.
÷
                      
Sống - Chết là vấn đề của muôn thuở. Mỗi kiếp làm người chỉ sống một lần và chết một lần. Hiểu ý nghĩa cuộc sống sẽ sống có ý nghĩa. Hiểu được ý nghĩa của cái chết sẽ chết có ý nghĩa. Cuộc sống hữu hạn và chết không phải là hết. Đó là sự chuyển hoá từ dạng tồn tại này sang dạng tồn tại khác theo luân hồi do nhân quả chi phối. Cái quý nhất của con người là Tâm thiện. Ở dương gian thì làm theo luật, sống theo đạo lo giữ cho thân khoẻ, tâm nhàn. Xuống âm gian chỉ được mang theo hai thứ phước đức và tội lỗi. Luật nhân quả vô cùng khắc nghiệt; gieo thiện gặt phúc, gieo ác gánh họa.
Sống thế, mà chết cũng vậy. Đó là điều muôn thuở.
Hà Nội, đêm 27/10/2008     

Trước khi chết người ta sẽ thấy gì???