CÁCH SỬ DỤNG BLOG NÀY

1. Đi tượng đc gi:1. Nhng bn tr có máu phiêu lưu thích chu du x người trong thi gian dài nhưng vi s tin ti thiu nht có th; 2. Nhng người có tâm hn rng m, sn sàng dp cái tôi và quan đim ca mình sang bên đ tiếp nhn nhng quan đim mi.


2. Quan đim: Bn suy nghĩ khác tôi không có nghĩa là bn đúng, tôi sai hay tôi đúng, bn sai. Bn suy nghĩ khác tôi bi vì tôi và bn không ging nhau. The meaning of life is not in trying to find out who is right, who is wrong; the meaning of life is in accepting each other's differences.


3. Phương tin: "Vi bát cơm ngàn nhà; Mt mình muôn dm xa; Chn chn không phi nhà; Ch nào cũng là nhà."

4. Ni dung: Bao gm nhiu lĩnh vc mà tôi quan tâm 1. Du lch bi (Budget Travelling) 2. Sng ti gin (Minimalism) 3. Tái chế và tái s dng (Upcycle & Repurpose) 4. Tâm linh (Spirituality) 5. Triết lý cuc sng

Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2014

LÀM SAO ÐỂ CÓ HÒA BÌNH TRÊN THẾ GIỚI

Trích: ĐỨC PHẬT VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ  

Dịch giả: TT Thích Giải Thông-Phỏng dịch theo bản tiếng Anh The light of truth của Giảng sư LOKANATHA 

Do The Singapore Maha Bodhi School xuất bản

Nguồn bài viết 


 
Tôi có viết bài báo tựa đề: “DẬP TẮT CHIẾN TRANH VĨNH VIỄN”, điều này đồng nghĩa với “hòa bình thế giới”. Trong bài báo tôi đề xướng một giải pháp duy nhất để ngăn ngừa chiến tranh: Ðó là phương cách dập tắt nguyên nhân gây ra chiến tranh. Tôi đã kham nhẫn tìm cách giải trừ vũ khí bên ngoài thế giới bằng cách giải trừ vũ khí ngay bên trong thân phận con người. Tôi đã thấy rõ sự kiện muốn dập tắt chiến tranh thì phải tận diệt ngay bên trong gốc rễ của nó. Về phương diện y học, tôi đã từng chẩn đoán nhiều ca và đưa ra toa thuốc chữa trị. Lòng tham là cội nguồn của chiến tranh, chiến tranh khắp nơi trên thế giới. Làm thế nào để đoạn diệt lòng tham tức là hoàn thành sự giải trừ quân sự trên khắp thế giới. Có nhiều phương án kinh tế quy mô mong ổn định chiến tranh khắp nơi đã được đưa ra ánh sáng. Nhưng các giải pháp trên đều vô ích vì họ không đoạn diệt được nguyên nhân của chiến tranh, chẳng khác nào chỉ sử dụng thuốc ngoài da chứ không tẩy sạch được máu mũ, tiêu trừ tận gốc được tìm thấy bên trong cơ thể–tâm ý con người chứ không phải bên ngoài. Hậu quả là gì? Ðiều ác vẫn tồn tại, chừng nào mà gốc rễ của nó vẫn còn ẩn tàng chưa đoạn diệt. Dù một vài ứng dụng về giải pháp kinh tế có vẻ thành công, tạm thời ngăn chặn được những tranh chấp quốc tế; song tinh thần gây chiến của con người vẫn khẳng định chính nó phát sinh thứ nội chiến như một số các nước trên thế giới hiện nay.

Nếu các cuộc nội chiến có được ngăn chặn đi nữa thì các chứng bệnh tranh giành vẫn sôi sục âm ĩ trong nanh vuốt của gia đình. Nơi đó cha mẹ tranh với con cái; con cái chống đối cha mẹ; vợ chồng cãi lộn, anh em, chị em xung đột lẫn nhau. Và dù cho những phiền não bên ngoài chấm dứt nhưng tâm ý đấu tranh nơi con người vẫn làm cho người ta nổi loạn chính mình. Cho đến khi chính mình phải đắm lệ trong những tình huống khổ đau tuyệt vọng. Tại sao? Chỉ vì lòng tham của vị đó vẫn còn âm ĩ bên trong.

Vì vậy chúng ta phải diệt trừ tận gốc rễ chiến tranh mới đem lạì hòa bình thực sự.Chúng ta phải quét sạch những nguyên nhân cơ bản đưa đến chiến tranh, giống như ngôn ngữ trong Tân ước: DỤC VỌNG là TRẬN CHIẾN trong anh em chúng ta.

Trong bài báo đã nói, tôi tìm cách trình bày cho họ thấy rằng làm sao giải trừ được khí giới trong mỗi và mọi người mới dẫn đến sự giải trừ quân bị thực sự làm cho thế giới được hòa bình tịnh lạc.

Tôi muốn nhấn mạnh “việc giải trừ quân sự toàn cầu”. Nghĩa là kết thúc toàn bộ việc quân binh, tức là tước bỏ vũ khí tham ái của mỗi người. Chúng ta hãy từ giã vũ khí chiến tranh bằng con người đã thực sự giã từ vũ khí. Ðó là những con người toàn thiện. Chúng ta ước mong mỗi người đều trở thành bậc Thánh nhân, như vậy mới thực hiện được hòa bình thế giới lâu dài, và rồi lịch sử sẽ là một lịch sử đổi mới chứ không phải lịch sử bạo tàn của thời kỳ xa xưa, mà chúng ta đã phải chịu đựng thống khổ liên tiếp từ cuộc chiến này đến cuộc chiến khác.

Thấy không có hại gì khi tôi đề cập đến câu nói của Mussolini: “chiến tranh vẫn trường kỳ và hòa bình chỉ là khoảng trống để thư giãn trong cuộc chiến liên tục”. Thế tại sao người ta ngưng chiến? Bởi vì họ không thể giao tranh thêm nữa. Họ quá mệt mỏi và vì suy liệt mọi khả năng phương tiện, họ chỉ cần một khoảng trống thời gian để thở, dùng khoảng cách thư giãn này để chuẩn bị cho trận chiến sắp tới. Chừng nào họ cảm thấy có đủ sức lực thì họ lại bắt đầu khai chiến.

Lại nữa, khoái lạc giác quan cũng là nguyên nhân của cuộc chiến tranh, của lòng ích kỷ, tham lam, tranh chấp giữa các vương quốc, các lãnh thổ, gia đình. Khoái lạc giác quan đưa đến chiến tranh, thảm sát, tra tấn và điên loạn. Chắc quý vị muốn nghe câu chuyện mà Ðức Phật đã nói cách đây 2500 năm về chiến tranh, nguyên nhân và phương pháp chấm dứt?

Ðức Phật dạy: Năm uẩn tức là 5 hợp thể khoái lạc giác quan: sắc được cảm nhận bằng mắt; âm thanh được cảm nhận bằng tai; hương khí bằng mũi; mùi vị bằng lưỡi và xúc chạm bằng thân. Tất cá đều có thể cảm thấy khoái lạc và kích thích đam mê. Vì khoái lạc, từ khoái lạc, do khoái lạc, chính khoái lạc và chỉ khoái lạc là nguyên nhân cốt tủy. Thế nên vua mới chinh phạt vua, hàng quý tộc mới tranh chấp với hàng quý tộc, Bà La Môn diệt Bà La Môn, dân trong nước tranh giành vởi nhau. Cha mẹ xung đột với con cái, con cái xung đột với cha mẹ. Anh chị em hơn thua với nhau, bạn bè sừng xỏ với nhau. Họ tận lực hạ nhau bằng những cú đấm, cú đánh, bằng gậy, bằng dao, đi dần đến chỗ tử vong hay thương tích trầm trọng. Ðó là những hiểm họa đi theo sau những khoái lạc giác quan ở đây và bây giờ với tất cả những sự cố tạo thành một tổng thể đầy bất trắc: vì khoái lạc, từ khoái lạc, do khoái lạc, chính khoái lạc và chỉ khoái lạc là nguyên nhân.


Kinh Trung Bộ–một trong Tạng Kinh Phật có nói: Mọi sự đều tương ưng, vì khoái lạc mà gươm khiên sẵn sàng ra trận; cung tên và xạ thủ hối hả dàn quân, trong khi tên đao phóng xuyên qua không trung thì gươm giáo vung lên chém đầu kẻ thù đến nỗi xác chồng chất và thương tích chết người. Ðây là những hiểm họa đi theo những khoái lạc giác quan, ở đây và bây giờ với tất cả những yếu tố gây nên toàn bộ bất lợi. Tất cả vì khoái lạc, từ khoái lạc, do khoái lạc và chính khoái lạc là nguyên nhân.

Có điều là trên chiến trường, niệm tưởng sau cùng của một chiến sĩ tử vong không thể nào có được. Bởi vì kẻ thù đang cố ý giết anh ta, khi anh ta sắp chết liền khởi một niệm tưởng sân hận, niệm tưởng sau cùng này tác hại cho bản thân anh ta và cho người khác. Anh ta không thể tái sinh trong cảnh giới tốt được. Niệm tưởng sau cùng có ảnh hưởng đến sự tái sinh sắp tới.


Ðiều gì khiến ta thoát khỏi khoái lạc giác quan. Phải hạn chế và khép chặt vĩnh viễn các thèm khát và khoái khẩu, đây là pháp thoát ly mọi khoái cảm giác quan, nguyên nhân dẫn đến sự giải trừ quân sự khắp nơi và chiến tranh thế giới. Vì vậy con người sống trên toàn cầu phải từ bỏ khoái lạc giác quan, đó cũng là cách làm cho người ta từ bỏ chiến tranh, ổn định hòa bình thế giới.

Phật Giáo là gì? Phật Giáo là tôn giáo của lòng từ bi vô lượng đạt được nhờ sự từ bỏ, không có gì cao cả hơn điều này, từ bỏ cái không thực, chúng ta đạt được thực tại tối thắng của Niết Bàn vô thượng.

Lòng ham muốn đưa đến thù hận. Ham muốn chiếm đoạt đưa đến thù hận; thù hận đưa đến chiến tranh. Bởi vậy nếu dập tắt được thù hận là dập tắt được chiến tranh. Chúng ta phải đoạn diệt lòng tham ưa thích của cải và quyền lực.

Hãy xóa bỏ chiến tranh vĩnh viễn. Hận thù không bao giờ ngăn chặn được hận thù. Quy luật nghìn xưa đều thuần thiện. Khi hận thù không còn đối đáp với hận thù, nó sẽ tự tiêu tan. Chiến tranh chỉ chấm dứt khi nào loài người trên thế gian này từ bỏ binh nghiệp, và chỉ khi nào họ được giáo dục  về lòng căm ghét, sự giết hại, mọi sự giết hại ngay cả loài côn trùng bé nhỏ. Thế nên ta cần huấn luyện các thanh thiếu niên phải biết ghét bỏ sự sát hại. Ðây là một khuyết điểm của nhiều tôn giáo, không giáo dục lòng từ bi thương cảm đối với vạn hữu sinh linh. Họ nói: hãy yêu thương con người! và ngưng tại đó, không vượt khỏi loài người tức là sinh mạng những loài vật. Lòng từ bi bác ái của họ mới có một phía. Lòng từ bi và bác ái đó chưa phổ cập và nồng nhiệt chân tình.

Người ta buộc phải giết sinh vật vì nó được tạo ra phục vụ cho bữa ăn của con người! Vị đó là người sáng tạo sẵn sàng giúp đỡ, tạo nên những sinh vật để cống hiến cho những sinh vật khác. Vì vậy chúng ta quả là những người được yêu chuộng!

Nếu con người trên thế giới này muốn hoàn thành việc giải trừ vũ khí toàn cầu, trước tiên họ phải tháo bỏ vũ khí ngay trong tâm mình. Nếu tâm thức con người cứ mãi hùng hổ thô bạo với tháỉ độ quân sự thì làm sao tâm thức đó có thể hoàn tất được cuộc giải trừ vũ khí toàn thế giới.

Chính lòng tham mới khiến con người phát biểu: “lãnh thổ này là lãnh thổ của riêng tôi”. Chính lòng tham đã khiến người ta coi rẻ mọi đất nước khác, ngoại trừ quê hương xứ sở mình.

Vì vậy chúng ta hãy kêu gọi con người dập tắt lòng tham, họ sẽ yêu quê hương họ một cách công bằng. Khi họ yêu thương mọi quốc gia một cách bình đẳng thì họ còn chiến đấu với ai nữa? Ðây là giải pháp đảm bảo cho công cuộc giải trừ quân sự khắp nơi và hòa bình thế giới một cách có hiệu lực.

Từ đâu đưa đến chiến tranh và xung đột giữa quý vị với nhau? Rõ ràng do lòng tham là nguyên nhân gây ra chiến tranh, vì vậy chúng ta hãy giải trừ vũ khí chính mình bằng cách diệt lòng tham “là chiến tranh trong anh em chúng ta” và chúng ta sẽ hưởng được hòa bình cho mỗi cá nhân. Chúng ta hưởng được hòa bình cho mỗi cá nhân sẽ đưa đến hòa bình cho toàn gia đình, đưa đến hòa bình cho toàn quốc gia, đưa đến hòa bình cho toàn thế giới.

Do đó chúng ta hãy tự mình tước bỏ vũ khí, tự đoạn diệt tham ái và hận thù. Chúng ta hãy tiếp dẫn lòng yêu thương và hòa bình vào tâm thức của lớp trẻ. Chúng ta hãy giáo dục thanh thiếu niên biết giữ đạo hạnh. Nếu mọi người được an lạc nội tâm thì toàn thế giới cũng được an lạc và sự giã từ vũ khí khắp nơi sẽ là một thực tế có thể diễn ra trong nháy mắt.

Các quốc gia sở dĩ phải vũ trang là vì nhiều cá nhân đã vũ trang (với lòng tham ái, sân hận). Khi nào những cá nhân trở nên dân sự (không còn trang bị vũ khí hận thù) thì mọi quốc gia trên thế giới sẽ giã từ quân sự. Thông thường người ta hay khiển trách những nhà tổng chỉ huy quân sự; họ cho rằng những nhà tổng chỉ huy là nguyên nhân của chiến tranh nhưng có ai hiểu được những nhà tổng chỉ huy đó là những đầy tớ của chúng ta.

Do ôm ấp hận thù khiến toàn thể quần chúng áp lực những nhà tổng chỉ huy đáng thương đó phải ra tay hành động, họ chỉ là những công cụ của chúng ta. Bởi vì khi toàn dân muốn có chiến tranh thì áp lực tinh thần của toàn dân buộc nhà tổng chỉ huy phải tuyên chiến. Bởi vì quý vị cũng hiểu rõ rằng những làn sóng tư tưởng gây ảnh hưởng đến người khác. Họ không thể bất động mà phải thỏa mãn nguyện vọng của đa số quần chúng cần biểu dương quân sự để bảo vệ Tổ quốc.

Có khi chiến tranh xảy ra không phải do quần chúng mà xuất phát từ những vấn đề khác, có thể là do những nhà công kỹ nghệ, những nhà tài phiệt kinh tế có thể áp lực các nhà lãnh đạo quốc gia ra tay hành động nếu nó tạo thắng lợi về mặt tư bản bất cứ cách nào. Dẫu sao đi nữa thì quần chúng vẫn là những người chịu trách nhiệm đối với vấn đề giải trừ vũ khí khắp nơi. Chúng ta không nên chê trách chính phủ hay những nhà tổng chỉ huy. Chúng ta hãy lên án những người vẫn còn ấm ức với nội tâm đầy tham ác hận thù. Bất cứ lúc nào ta còn nội chiến với chính mình thì lúc đó chúng ta đang góp phần cho chiến tranh. Chỉ khi nào mỗi người được an lạc bên trong, vị đó mới dám thành thật nói rằng mình không chịu trách nhiệm về chiến tranh, mỗi niệm tưởng sân si, thù hận đang tăng dần nhiên liệu khơi động chiến tranh sau cùng, thật tàn khốc.

Giờ xét đến từ “lòng yêu nước”. Từ này chịu trách nhiệm sát hại hơn bất cứ từ nào. Báo chí làm kích động và nóng máu quần chúng, vì vậy ta nên chận đứng báo chí kiểu đó hoặc giao cho những nhà biên tập ưa chuộng hòa bình. Họ là những người không thích chiến tranh, và rồi nếu những nhà biên tập là những người yêu thích hòa bình thì nhất định họ sẽ không viết những tin giật gân. Ai sẽ mua những loại báo đó. Báo phát hành ra ngoài vì tiền và tiền gây cho báo chí hoang mang. Nó kích động quần chúng vì họ muốn có chiến tranh. Tiền bạc quả là một con rắn độc, cũng chính vì đồng tiền mà chiến tranh bùng nổ khắp nơi. Bằng phương tiện hô hào lòng yêu nước, nói láo, gian dối, làm nhục, các chiến sĩ bị kích động, bị thuyết phục giết nhau giống như giết những con chó. Và khi được chết trên chiến trường họ được vinh danh với các từ “anh hùng”. Thật là dối trá đối với họ làm sao? Ðức Phật đã nói những vị anh hùng này chịu đau khổ ở địa ngục trần gian và địa ngục kiếp sau. Bởi vì niệm tưởng sau cùng của họ không thể là ý niệm của lòng từ bi vô hạn. Một chiến sĩ không thể nào cầm dao đâm vào một chiến sĩ khác khi đã có lòng từ bi vô lượng. Nếu mọi chiến sĩ biết điều này liệu ai còn dám nghĩ rằng mình là một đồ tể giết người hay không? Chắc quý vị biết rằng thời gian trước đây, khi trở về quê hương–nước Ý, tôi đã từ chối không đi lính. Khái quát lý lịch thì quý vị cũng biết rồi, tôi từ bỏ cha mẹ, anh chị ở Mỹ, sang Miến Ðiện tu học 6 tháng. Tôi bỗng bị bệnh kiết lỵ nên trở về Ý để thay đổi không khí. Lúc đó tôi còn trẻ, mới có 27 tuổi, là một Tăng sĩ hết sức năng nỗ nhiệt tình. Chính quyền ở Ý “chộp cổ tôi” buộc tôi phải thi hành nghĩa vụ quân sự. Tôi đã khoác y vàng, là đệ tử của đức Như Lai, tôi đã xuất gia nghĩa là thoát ly thế tục vậy mà bây giờ họ muốn kéo tôi trở lại đường trần vốn ly khai chúng tôi. Họ cố cưỡng bức “anh phải nhập ngũ”. Tôi trả lời rằng tôi không thể nào đi lính được vì tôi là đệ tử của Ðức Phật, tôi không được phép giết một con kiến hay con muỗi hút máu thì làm sao tôi có thể giết một con người vốn là anh em của tôi. Dù là theo luật pháp, mỗi người công dân chỉ phục vụ quân ngũ 8 tháng, tôi vẫn lý giái để cho họ thông cảm trường hợp của tôi, tôi sanh ở Ý nhưng tôi lại yêu tất cả mọi quốc gia với tâm bình đẳng, mọi người là anh em của tôi. Vả lại, Phật Giáo của tôi là tôn giáo của lòng từ bi đối với tất cả sinh vật lớn hay nhỏ đều không phân biệt.

Làm sao người ta có thể hoàn tất được cuộc giải trừ quân sự toàn cầu. Ðiều này chỉ có thể thực hiện được khi nào mọi người đều từ chối không để mình trở thành người lính. Việc này chỉ thực hiện tốt đẹp khi nào họ được giáo dục sự chán ghét giết hại, giết tất cả ngay đến các loài côn trùng nhỏ bé. Thế nên chúng ta phải dạy cho các thanh niên biết chán ghét sự giết hại. Hãy làm cho các nhà đồ tể–cơ sở giết súc vật–trở thành trận chiến phai tàn. Cũng như các tội tử hình cần được phá bỏ. Tội giam tù mãi mãi là hình ảnh tốt đẹp hơn so với tội tử hình ghê rợn, phi nhân.

Khi các bé trai lớn dần, chúng được cho mặc những bộ đồ lính, đồ chơi súng cầm tay, đồ chơi súng đại bác.v.v...dĩ nhiên những sản phẩm tâm lý trở nên một sáng tạo quân sự này khiến tham vọng bành trướng và chúng mơ ước trở thành chiến sĩ khi đến tuổi trưởng thành. Ðây là lối giáo dục nguy hiểm.

Vậy chúng ta hãy huấn luyện con em chúng ta biết yêu thương loài vật cùng hô hấp trên trái đất này. Hãy yêu thương người lân cận như yêu thương chính mình. Vì ghét người lân cận là ghét chính mình. Họ không nêu lý do tại sao bạn phải yêu thương người lân cận. Bởi người lân cận là chính mình. Nếu bạn ghét người lân cận là tự động ghét mình. Ðó là lý do tại sao bạn phải yêu thương người lân cận như chính mình. Bởi lẽ không có bản ngã trong Ðạo Phật. Tất cả lòng yêu thương là một. Nếu bạn yêu thương mình là yêu thương muôn loài. Ðây là con đường đưa tới hạnh phúc.

Pháp ăn chay sẽ đoạn diệt được sự hung hăng. Người ta quả quyết chứng minh được rằng sự ăn chay có thể thuần hóa những con sư tử dữ tợn thành những con vật hiền từ. Đạo sư Kvishanandfi đã từng thuần hóa những con sư tử và cọp trở thành những con vật ăn chay hoàn chỉnh. Chúng ta từ chối, không để ý đến thịt nữa, pháp ăn chay đã biến đổi chúng thành những con vật vô hại. Vậy tại sao chúng ta không thuần hóa chúng sanh thành những công dân hòa bình vốn từ chối thanh toán sát hại nhau? Chỉ khi nào con ngườì trần gian này trở nên trầm mặc và tĩnh lặng họ mới hy vọng hoàn tất được sự giải trừ binh nghiệp, đem lại hòa bình cho thế giới.

Thịt sở dĩ cung cấp cho binh lính ăn là vì thịt kích thích và làm cho binh lính hung hăng thêm. Nếu binh lính ăn cỏ thì họ sẽ trở thành những con nai hiền từ. Họ sẽ yêu thương nhau và ôm nhau mừng rỡ. Lúc đó mới thực sự là thời điểm hòa bình.

Lương tâm quần chúng phải được khơi dậy trước khi thực hiện điều gì. Khi lương tâm quần chúng vùng lên chống cảnh nô lệ thì cảnh nô lệ sẽ bị tiêu diệt. Khi lương tâm quần chúng vùng dậy chống chiến tranh thì chiến tranh phải dập tắt. Pháp ăn chay tạo cho con người hiền hòa, tĩnh lặng. Và vì vậy là một đại cơ xưởng đang khởi động lương tâm quần chúng chống chiến tranh. Nhà tiên tri Isaiah đã nói: “Kẻ nào giết một con bò thì dường như kẻ đó đã giết một con người”. Chúng tôi cũng nói vậy: “Ai giết được một con bò, ngườí đó sẽ giết được một mạng người”. Theo tài liệu báo cáo thì có nhiều trường hợp những đồ tể cũng ghét luôn cả con người. Có những trường hợp trẻ nhỏ giết cả các em của mình sau khi thấy cha chúng giết heo.

Hãy lưu ý thêm các thống kê tội ác cho thấy trong số những người ăn thịt ở Tây phương phạm tội ác gấp 8 lần so với số người ăn chay ở Ấn Ðộ.

Một hôm người ta hỏi Bác sĩ Arundale là liệu Bác sĩ có cách gì dứt được các bệnh điên của thời đại hiện nay không. Bác sĩ trả lời rằng phương pháp duy nhất không phải bằng kế hoạch kinh tế mà là phải triệt để giảm bớt những căng thẳng tinh thần về chiến tranh trong mọi phương diện đời sống. Ðược hỏi tại sao phải tiếp tục ăn chay, bác sĩ trả lời: theo ý nghĩ của tôi thì chắc chắn việc nuôi mạng sống bằng việc ăn thịt hàng ngày là động cơ thúc đẩy nổi máu chiến tranh. Tinh thần “súng đạn” nơi con người là hậu quả của lòng hiếu sát của con người trên thân phận những con vật đáng thương không nói được tiếng người để phản đối, tuyên chiến với loài vật là tuyên chiến với loài người, bởi vì về phương diện sinh học thì người và vật đều như nhau. Nếu loài vật có thể nói được thì chúng sẽ nói gì? Chúng sẽ gầm lên: “loài người là kẻ thù xấu xa tàn ngược nhất của chúng tôi. Và con người cũng là kẻ thù của chính họ. Họ dùng trí thông minh của họ để bắt giam và giết hại chúng tôi”. Hậu quả là: lòng ham muốn giết hại đã xúi giục họ sử dụng trí thông minh tương tự tìm mọi cách và phương tiện để tàn sát loài người trên bình diện quy mô hơn. Quý vị hãy nhìn trận đại chiến vừa qua với những hơi độc, tàu ngầm, phản lực cơ và bom nguyên tử gây tử vong khủng khiếp. Cho nên cần thuần hóa bản tính hung hăng của con người bằng pháp ăn chay. Muốn trở thành người trai giới thuần tịnh vị đó phải tránh sát hại sinh mạng loài vật, điều này sẽ làm cho vị đó tránh sát hại loài người.

Rượu cũng là một tai họa, nó đốt cháy thân tâm, làm ngu muội dòng tư duy của con người. Dưới ảnh hưởng của rượu người ta có thể chém giết, trộm cắp, tà dâm, nói láo và mất hết nhân cách. Vì vậy ta nên khuyên mọi người trên khắp thế giới nên tránh uống các chết say và nên uống nước lọc trong sạch, tinh khiết toàn hảo nhất. Ðược vậy họ sẽ trở nên con người thích hòa nhã, vui vẻ. Nếu việc uống rượu được hạn chế khắp nơi sẽ đưa con người vốn đầy lòng tham ái hận thù đến chỗ giã từ súng gươm chiến sự và khi mọi người có được hòa bình trong tâm thì lúc đó mới có hòa bình thế giới được. Và việc giải trừ vũ khí chiến tranh sẽ là một thực tại huy hoàng.

Ðức Phật đã dạy: “Này các đệ tử, nếu có bọn cướp dữ nào bắt con, chúng dùng dao để khắc vào tay chân con; ngay lúc đó con còn khởi tâm sân giận tức là vẫn chưa nghe theo lời dạy của ta. Ngay lúc đau đớn này, phận sự của con là phải kham nhẫn, giữ tâm bất động, không cho một lời thô ác nào thoát ra trên môi, mà con phải luôn luôn an vui trong hạnh nguyện từ bi, thiện ý bằng trái tim buông xả, không hận thù, ôm ấp nnhững niệm tưởng thương yêu sáng ngời đối với bọn cướp dữ đã hành hạ thân con. Và từ đó mãi mãi ban trải khắp nơi những niệm tưởng yêu thương, những ý tưởng vĩ đại, bao dung, vô lượng; nơi đây không còn hiện khởi một ý tưởng hận thù ác hại nào”. Sau 600 năm Ðức Chúa đã nói: “Hãy yêu thương kẻ thù của con, nếu kẻ thù tát vào má bên phải của con, hãy đưa thêm má bên trái cho họ tát”. Ðức Phật trước đó có phần tích cực hơn một chút, không những đưa má cho kẻ thù tát mà còn ôm chầm lấy bọn cướp bằng tấm lòng yêu thương Niết Bàn (vô ngã).

Ðức Thế Tôn đã dạy bài pháp tối hậu được mọi người nhắc mãi–giáo pháp về lòng yêu thương–không phân biệt về giống loài hay con người và toàn sinh vật hữu tình. Con người phải yêu thương đồng bào mình như chính mình; đổi lành lấy dữ; đổi yêu thương lấy hận thù; vị đó phải trải lòng từ bi cho loài cá dưới biển và loài mãnh thú trong rừng, cũng như loài chim trên không trung, cho thảo mộc cây cối, cho dòng sông, rừng núi... Vị đó chớ nên sát hại đồng bào của mình dù là để tự vệ. Tóm lại, toàn bộ chiến tranh đều là thói phàm tục thiếu đạo đức.

Cái duy nhất mà ta phải giết là lòng tham ái và sự hận thù. Chúng không phải ở bên trong mà cũng không phải ở bên ngoài. Con người là người bạn tốt nhất của chính mình, mà cũng là kẻ thù tai hại nhất.

Ðức Phật dạy: “Hãy đoạn diệt hận thù bằng tình thương, giữ gìn 5 học giới là trọng yếu sống hạnh phúc”.

Chiến tranh là hình thức sát hại, tà dâm, nói láo và uống rượu qui mô nhất; chiến tranh cũng là sự phá hoại qui mô nhất đối với 5 học giới nói trên. Vì lẽ đó chúng ta hãy dạy các con em tinh tấn giữ gìn 5 học giới. Nếu mỗi một em được giáo dục có tâm hạnh chán ghét tuyệt đối việc sát sanh, trộm cắp.v.v... thì nơi nào còn có thể xảy ra chiến tranh trong tương lai nữa? Chúng ta hãy cải biến xã hội bằng cách nhỏ từng giọt phẩm hạnh tình thương và hòa bình vào tâm thức còn mềm dẻo của thanh thiếu niên. Một khi thanh thiếu niên trưởng thành chúng sẽ tuyên bố một cách phản kháng: “Chúng tôi không chiến đấu nữa!”. Và đây là tiếng kêu vang dội sẽ bay khắp thế giới. Ðây là cách mà nhân dân trên toàn cầu có thể thành tựu việc giảm trừ chiến tranh đưa đến hòa bình thế giới.

Lại nữa, dù chúng ta có dư cảnh sát an ninh, chúng ta vẫn thấy mãi nhiều vụ sát hại, cướp bóc và tà dâm..., dù chúng ta có nhiều đồng minh quốc gia, chúng ta vẫn còn chiến tranh. Chỉ có một cách hoàn toàn chấm dứt tội ác và chiến tranh nghĩa là chúng ta phải có đồn cảnh sát bên trong tâm hồn mỗi người; hãy để mỗi người có cảnh sát riêng cho mỗi người. Khi mọi nguời chuyên cần tự mình kiểm soát an ninh cho chính mình thì nơi đây cần gì cảnh sát bên ngoài, liên minh các quốc gia hoặc là giải trừ vũ khí? Thế nên chúng ta phải dạy các thanh thiếu niên phải cố gắng thọ trì 5 học giới trên, chúng ta phải huấn luyện tuổi trẻ. Ðây là cách mà nhân dân trên thế giới có thể giải trừ vũ khí trên toàn cầu.

Chỉ có tu tập 5 học giới mới có thể dập tắt chiến tranh. Bởi vì 5 học giới giúp chúng ta biết yêu thương loài vật và tránh uống rượu–điều mà trong các điều răn không thấy dạy. Trong các điều răn, họ cho phép giết các loài vật và không có điều thứ 11: ngăn cấm uống rượu. Trong Phật Giáo có một huấn thị khuyên không nên uống rượu. Tâm là năng lực có thể đào phá con đường Niết Bàn. Nếu tâm không được trong sáng 100% thì làm sao con người có thể giải thoát cho mình vượt qua tham ái và những kẻ thù nội tâm vốn gây trở ngại cho con đường tiến đến Niết Bàn. Thế nên chúng ta phải giữ gìn bộ não cho sắc bén để có thể triệt phá những kẻ thù bên trong tâm thức mình, nó gây trở ngại cho ta trên bước đường giải thoát. Chúng ta hãy cống hiến cho lớp trẻ những huấn thị đạo hạnh đúng đắn, huấn luyện cho các thanh niên biết chán ghét đam mê khoái lạc giác quan. Nếu món ăn vật chất cần đòi hỏi mỗi ngày cho thân xác thì món ăn tinh thần cũng cần đáp ứng cho tinh thần và óc não. Ngày hôm nay toàn thế giới đang đau khổ vì thiếu món ăn tinh thần. Sự khao khát này là nguyên nhân dẫn đến chiến tranh. Thế nên thế giới cần phải có những chất liệu tốt để dinh dưỡng tinh thần. Chừng nào mà sự khao khát tinh thần trên toàn cầu không còn nữa thì vấn đề giải trừ quân sự và hòa bình thế giới mới có thể đạt được.

Vấn đề then chốt trong việc giải binh toàn cầu và hòa bình thế giới là gì? Liệu có một tấm gương độc nhất nào trong lịch sử, nơi đó nhà vua cai trị đã ổn định hòa bình mà không cần dàn dựng chiến lược quân sự? Có! Hoàng đế ASOKA là tấm gương độc nhất này trong lịch sử. Hoàng đế ASOKA lúc chưa quy y Phật thường chém giết người như giết gà. Nhớ lại trận chiến của nhà vua với dân thành Kalinga, nhà vua tàn sát khắp nơi mà không nương tay, giết 100.000 người và bắt làm nô lệ 150.000 người chỉ vì ông muốn cướp đoạt thêm thành Kalinga.

Chính lòng tham ái và dục vọng cuồng nhiệt muốn chiếm đoạt thêm một thành trì nữa đã khiến nhà vua Asoka tàn sát hàng trăm ngàn người. Vậy mà sau đó quý vị có thể tưởng tượng nỗi, vua xin quy y Phật, hạ bỏ gươm giáo và trở thành con người hiền hòa như con cừu vô hại. Ðức Vua tuyên bố với các quốc vương lân cận: “Nay tôi là Phật tử, tôi nguyện từ bỏ chiến tranh chém giết”. Và sau đó nhà vua cho ngưng chiến toàn bộ.

Lòng đầy hối tiếc về những điều mình đã gây nên thưở chưa quay về nương tựa nơi giáo Pháp cao siêu của Ðức Phật, Ðức Vua cho xây nhiều bệnh viện cho nhân dân kể cả bệnh viện cho loài vật, cho đào giếng nước bên đường, tạo công viên và trồng cây bóng mát nhiều nơi. Ðức Vua cải biến cách ăn uống hàng ngày và trở thành một Phật tử ăn chay trường. Đồng thời còn cổ vũ trong hoàng tộc, nhân sự phục vụ ... tất cả phát tâm ăn chay.

Vị tông đồ hòa bình này đã làm kinh ngạc thế giới với những trụ đá khắc chữ đồ sộ kiên cố toát ra nội dung tinh thần từ bi vô lượng do Ðức Phật giảng dạy. Hoàng Ðế ASOKA rộng lòng ban trải đức từ bi Phật tính vô ngại. Nhà Vua còn dũng mãnh gởi các Sứ giả hoằng Pháp sang khắp các nước trên thế giới; kể cả người con trai và người con gái của mình cũng được gởi sang Tích Lan để hoằng Ðạo. Hoàng Ðế Asoka quả thật đã đóng vai trò trọng yếu trong công đức hòa giải chiến tranh và khôi phục hòa bình thế giới.


Sir Edwin Arnold–tác giả tập sách “Ánh sáng Á Châu” đã ghi những lời: “Phật Giáo là tôn giáo có từ bản thân tính thường trụ, niềm hy vọng của toàn cầu. Sự bất diệt của đức từ bi vô lượng và nhân tố bất hoại của lòng tin vào quả lành sau cùng, cũng như sự khẳng định tự hào nhất trong quá trình từng xây dựng hòa bình cho nhân loại. Ðiều hãnh diện nữa là trong suốt 2500 năm, Phật Giáo chưa bao giờ làm rơi một giọt máu nào, cũng không bao giờ có những cuộc thập tự chinh nẩy lửa hay cuộc hành quyết đầy sắc máu, không hề đưa một tín đồ Phật tử nào lên giàn hỏa bởi vì Phật Giáo thường dạy lòng đại từ đại bi đối với chúng sanh không phân biệt”.

Trường hợp của tôi cũng vậy. Quý vị có ngạc nhiên không khi biết rằng chúng tôi cũng suýt bị chôn sống khi đang thuyết giảng bài Pháp về triết học Phật Giáo.

Vấn đề tự thắng mình là chiến thắng vĩ đại trong tất cả mọi sự chiến thắng, vì Ðức Thế Tôn đã dạy:

Dù tại bãi chiến trường

Ngàn lần thắng ngàn người

Nhưng tự thắng chính mình

Là người thắng vĩ đại.

Thế nên mỗi người chúng ta hãy tự chiến thắng mình, có được như vậy thì thế giới mới được bình yên phúc lạc.

Tất cả mọi người hãy rộng lòng ban trải hạnh từ bi hỷ xả. Hãy đối xử với người lân cận như chính mình, bởi vì nếu người lân cận là chính mình thì mọi sự sống đều là một và toàn thế giới sẽ được an lạc, không còn hận thù.

Ðức Phật đã dạy một quy luật muôn đời: “Lấy oán báo thù, oán thù, chồng chất. Lấy đức báo oán, oán tự tiêu tan”. Nhiều ngườì tin rằng họ có thể tiêu diệt hận thù bằng sự thù hận khác thô bạo hơn–nhưng không bao giờ được. Chỉ có cách ngược lại là dùng tình thương mới đoạn diệt được hận thù, thì nhất định hòa bình hiện hữu trường tồn.

Phạt án tử hình cũng là một trong những nguyên nhân của chiến tranh. Hỡi các nhà làm luật! Tại sao quý vị không giam sống họ trong nhà tù? Quý vị phải biết rằng tội nhân có thể kiếm sống trong trại giam bằng sự lao động có ích lợi cho họ. Chắc quý vị cũng biết tử hình là hình thức bạo ngược triệt phá lòng rthân từ. Và nhớ rằng khi tình thương yêu ra đi thì hòa bình cũng đi theo luôn. Giết nhiều người trong các nhà tù là đưa đến tàn sát con người ngoài mặt trận. Hành động đó là biện pháp kinh tế tầm thường khi nghĩ đến phương sách tiết kiệm tiền bạc bằng cách giết bớt những kẻ sát nhân. Cuộc chém giết như vậy dẫn đến cuộc thảm sát tập thể ngoài chiến trường với hậu quả tổn thất vô cùng to lớn.

Tử hình là áp dụng thực tế theo luật Moses nghĩa là mắt đổi mắt, răng đổi răng, mạng đổi mạng...Nhưng luật ăn miếng trả miếng này hoàn toàn khác với luật “Bất phản kháng” của Chúa Jésus có nghĩa là không chống lại điều ác: nếu ai tát má bên phải; bạn đưa thêm má bên trái cho tát. Sự thù hận luôn luôn đưa đến chiến tranh, tha thứ đưa đến Hòa Bình tịnh lạc.

Ước gì tôi có khả năng chuyển hóa tâm thức các nhà lãnh tụ, các tướng quân trên thế giới. Tôi sẽ khuyên họ: tại sao quý vị lại thích giao tranh, xâm chiếm lãnh thổ lẫn nhau? đất đai cơ đồ này có giá trị gì. Máu xương của loài người mới đáng giá! Tôi tin rằng quý vị cũng không biết mình gây chiến tranh để làm gì. Lòng tham ái si mê đã che mờ mắt quý vị khiến cho quý vị ham gây chiến. Tại sao quý vị lại muốn tuôn ra hàng biển máu chỉ đổi lấy thứ đất bùn vô giá trị. Thật là bi thương khủng khiếp! Hàng biển nước mắt hòa chung với máu của bao sinh linh đàn ông, đàn bà, con nít, nát tan từng mảnh trong sự thống khổ điêu tàn của chiến tranh quy mô.

Trong khi các nước đang hung hăng tiêu diệt lẫn nhau không chút thương xót, chúng ta nên mạnh dạn cất tiếng nói; rung lên hồi chuông báo động để cứu vớt nhân loại đang khổ đau trong sự hủy diệt và đang rơi vào trong các đọa xứ. Quý vị không nhận ra rằng chính mình đang hạ sát huynh đệ của mình chứ không phải kẻ thù. Mọi quốc gia đều là thiện hữu tâm giao. Tham ái, sân hận, ngu si mới là kẻ thù của quý vị. Kẻ thù nguy hiểm này đang nằm bên trong ta.

Ðức Bồ Tát đã dạy: “Thà chết mà chiến thắng cám dỗ còn hơn là sống mà phải thảm bại”; cho nên tự chiến thắng mình mới là chiến thắng vĩ đại.

Các quốc vương thích giao tranh nhưng không phải chiến trường trong tâm. Nếu các vị lãnh tụ tự chinh phục mình thay vì chinh phục kẻ thù bên ngoài thì họ sẽ tận hưởng hòa bình an lạc. Thời Cổ đại xa xưa có tục lệ vua giao chiến với vua. Tôi nhớ không lầm, lịch sử của Silanka (Ceylon) vua Dutugemunu giao tranh với vua Elasa nói: “Ðể ta giao chiến với đối thủ”. Vậy là quân lính giạt ra hai bên làm khán giả, nhìn hai tướng quân của mình so gươm sinh tử. Quân lính sẽ thấy rõ ai là người thắng, ai là kẻ bại cuộc. Vua Dutu giết chết vua Elasa, tức thì quân lính của phía bại trận chạy về; cuộc chiến chấm dứt. Tập tục này thật hay, cứu được nhiều mạng người. Ðó là loại chiến thuật chìến lược hết sức tiết kiệm. Chỉ có một trong hai người chết, còn bao nhiêu đều sống sót. Quả là đại hạnh phúc.

Có một sự kiện mà các nhà chiến sự không mấy ai thông hiểu, đó là một niệm tưởng cuối cùng của một quân sĩ vừa tắt thở. Ðức Phật đã dạy: Những vị được gọi là anh hùng đó lúc chết ngoài chiến trường, linh thức sẽ đi thẳng vào địa ngục “địa ngục bạt thiệt” vì tranh chấp lý sự. Ðiều gì xảy ra? Bởi vì niệm tưởng sau cùng là niệm tưởng sân hận. Hàng ngàn quân sĩ đang chết mỗi ngày sẽ tái sinh vào địa ngục. Chiến tranh không phải là khốn khổ sao? Vui thích phần mình có một thoáng chốc và sau đó phải rơi vào các đọa xứ địa ngục. Vì vậy chúng ta không nên vui thích sát hại sinh mạng kẻ khác mà nên kham nhẫn trải lòng từ và quên lãng mọi sự.

Một nước nào đó bị bại trận sẽ nuôi hận trong tâm. Chúng ta chiến thắng tức là đã tạo thêm nhiều kẻ thù. Vì vậy nên hòa hoãn và tha thứ. Người thắng, kẻ thua phải ôm chầm nhau trong tình thân ái như hai võ sĩ giao đấu trên võ đài. Sau trận đấu họ bắt tay nhau nở nụ cười trong tinh thần võ sĩ đạo cao thượng. Cũng theo gương đó, khi các quốc vương chấm dứt cuộc chiến thế giới, các quốc gia hãy bắt tay nhau. Chúng ta chỉ cần có vậy, chúng ta nên giúp đỡ lẫn nhau.

Vì khát vọng của mỗi quốc gia là Hòa Bình. Quê hương họ có còn thống khổ do sự khủng khiếp của chiến tranh đẫm máu nữa không? Lòng tham dục đã khiến họ tham chiến! Lòng nham hiểm của con người thì vô tận. Sự hủy diệt loài sinh vật chính là nguyên nhân tiêu diệt loài người. Chiến tranh đang bừng cháy, ngọn lửa bên trong, ngọn lửa bên ngoài, lửa cháy khắp nơi. Lòng tham là ngọn lửa hung tàn nhất. Ðam mê dục vọng là nguyên nhân gây ra chiến tranh, chiến tranh bên trong tâm hồn là nguyên nhân thúc đẩy chiến tranh bên ngoài.

Người chiến thắng vĩ đại nhất mà thế giới từng ca ngợi đó là Ðức Phật–người chiến thắng vô song. Những hào kiệt như Alexander Ceasar, Napoleon không thể đem so sánh với Ðức Phật, vì Ngài là bậc Giác Ngộ chinh phục được toàn thế giới, điều mà những người khác không thể thực hiện được.

Chúng ta hãy làm cho các lãnh tụ quốc gia hiểu rằng cố gắng chinh phục thế giới bằng hận thù đều vô ích. Chúng ta hãy noi gương Ðức Phật hàng phục thế giới bằng tình thương. Người chiến thắng vinh quang nhất bằng hận thù chỉ đưa đến bại vong sau cùng. Ðức Phật đã hàng phục thế giới cách đây 2500 năm bằng loại vũ khí tình thương và chân lý như thực. Ngài mãi mãi là bậc Thầy của nhân loại, là ánh sáng của 10 ngàn thế giới, làm cho mọi chúng sinh trở thành những máy phát điện tình thương, những bộ pin tình thương, những đài phát thanh tình thương, khiến cho con người tỏa sáng mãnh liệt những niệm tưởng từ bi vô lượng trên khắp vũ trụ nhân gian. Dù đi, đứng, nằm, ngồi, hãy làm cho chúng sinh tràn ngập lòng từ bi khắp nơi. Chỉ có tình thương mới hàng phục được hận thù. Bởi vì tịnh hóa thế giới mới đưa đến hòa bình thế giới.

Chúng ta hy vọng rằng thế giới này sẽ chuyển hóa thành quốc độ Phật, tràn ngập lòng từ bi phổ khắp đến vô lượng chúng sinh, bởi vì chỉ khi nào tình thương trở thành thân thiết, nơi đó sẽ không còn có biên cương, địa giới, không còn kỳ thị; thế giới sẽ thực sự hưởng được hòa bình an lạc khắp nơi. Hãy nhớ rằng ngay như cõi Trời cũng có chiến tranh. Chúng ta được Kinh Phật dạy rằng chư Thiên và Thần Atula đã từng giao chiến với nhau. Nếu các vị Thần Thánh mà không thể hòa mình với nhau, làm sao con người có được. Ðiều đó khá bi quan và mâu thuẫn. Dù sao thì mỗi người chúng ta vẫn có thể tự chinh phục mình. Tất cả sau cùng sẽ tự thắng mình, bởi vì mọi người đều bình đẳng và khi đã dũng cảm hàng phục được mình thì toàn bộ thế giới sẽ thực sự hưởng được hòa bình an lạc.

Thứ Năm, 30 tháng 1, 2014

THÔNG ÐIỆP CỦA ÐỨC THẾ TÔN

Thông điệp của Ðức Thế Tôn là thông điệp vô song qua các thời đại. Con đường Phật dẫn đến hạnh phúc sẽ chứng tỏ cho ta thấy rằng Phật Giáo không phải bi quan tiêu cực như người ngoại đạo thường nói, mà là một tôn giáo đưa đến phúc lạc tột đỉnh ngay tại đây và bây giờ.

 

Bằng cách nào để chúng ta sống được hạnh phúc? Hãy làm điều thiện. Tránh mọi điều ác. Tịnh hóa tâm thức. Ðó là lời dạy của chư Phật.

Nhờ nương theo những bước đi chân lý mà người ta đạt được hạnh phúc vì trí tuệ đưa đến hạnh phúc, si mê đưa đến bất hạnh. Làm điều thiện bạn sẽ hưởng phúc lạc. Ðiều thiện là gì? Thực hành 5 học giới là làm điều thiện. Năm học giớỉ cần phải được thọ trì bằng tinh thần cũng như bằng văn từ ngôn ngữ. Văn tự sát mạng còn tinh thần cứu mạng. Ðối tượng của 5 học giới là gì? Bố thí để diệt trừ tham, trì giới để diệt trừ sân, thiền định để diệt trừ si.

Năm học giới phải được thực hành thận trọng qua tâm ý, lời nói và hành động vì mọi sự việc đều do tâm. Tâm là kẻ tiên phong, thủ trưởng và là kẻ sanh sự đủ chuyện. Hãy chánh niệm quán sát tâm thì mọi sự đều tiến hành tốt đẹp. Nhưng quán tâm bằng cách nào? Phật Giáo là phương pháp tu tập, điều phục tâm. Nếu chúng ta giữ yên lặng chỉ theo dõi tâm, chúng ta sẽ làm cho tâm trong sạch, bảo đảm như ánh mặt trời lên cao. Nhưng làm cách nào để tịnh hóa tâm được. Nếu trong khi quán tâm mà một ý niệm hay vọng tưởng nào khởi lên đi kèm theo với tham, sân, si thì bạn lập tức chuyển tâm sang hướng khác. Chẳng hạn tâm từ bi thay cho tâm thù hận. Nếu ai chuyển tâm đến Ðức Phật, vị đó sẽ đạt hiệu quả cấp kỳ bởi vì có sự hiện diện của đức Ðại từ bi thì không còn một niệm tưởng tham, sân, si nào khởi lên được.

Nếu phương pháp thứ nhất không thành công, bạn hãy thử phương pháp thứ hai. Nghĩa là cố gắng tư duy về những mối nguy hại của những vọng tưởng, bởi vì ý nghĩ về sân thường dẫn đến sát hại. Nếu bất cứ niệm sân nào khởi lên, hãy diệt ngay từ trong trứng nước. Nếu phương pháp thứ hai không đạt, bạn hãy làm theo phương pháp thứ ba.

Nghĩa là chúng ta đừng nuôi dưỡng, ấp ủ vọng tưởng mà đơn giản lái ý tưởng sang hướng khác không chú ý đến vọng tưởng, nó sẽ chết dần các mối duyên hợp.

Nếu phương pháp thứ ba cũng thất bại, hãy thử phương pháp thứ tư, cố gắng loại bỏ những điều đã tạo nên các vọng tưởng. Hãy tìm ra nguyên nhân rồi nhổ tận gốc rễ.

Nếu phương pháp thứ tư vẫn không kết quả, hãy thử phương pháp thứ năm. Ðây là hành động trực tiếp, tôi không muốn nói hành động trực tiếp ở Ấn Ðộ bởi vì Ðức Phật không phải là thần Jinnah mà là vị Thánh Jina– người chiến thắng dục vọng–người chinh phục thế gian. Ngài tự chiến thắng mình chứ không phải là kẻ chiến thắng người khác.

Nhưng hiển nhiên khi người nào tự chiến thắng mình tức là vị đó muốn chinh phục người khác bằng chính tình thương vô bờ bến. Ðức Thế Tôn sau khi tự chiến thắng mình tại Bồ Ðề Ðạo Tràng cách đây 2500 năm đã trở thành ngọn đèn Á CHÂU và là ánh sáng thế giới. Bằng phương pháp trực tiếp, nghĩa là bạn nghiến chặt răng, uốn lưỡi lên đốc họng và tung toàn lực quét sạch vọng tưởng với sức mạnh của năng lực, ý chí giống như nhà đô vật khổng lồ đưa vai vác chú lùn, nâng bổng lên cao rồi ném chú ra khỏi dây, giống như bạn đang vật lộn với vọng tưởng của chính mình, bằng toàn sức mạnh và năng lực ý chí, bạn sẽ quăng vọng tưởng ra ngoài.

Một khi tâm đã được tịnh hóa rồi bằng một trong 5 cách trên, lúc đó bạn mới hưởng được sự thuần tịnh trầm mặc và an lạc. Ðồng thời các vọng tưởng đó không còn quấy phá bạn nữa. Nếu bạn hành động theo phương pháp này mỗi lần vọng tưởng khởi lên, rồi thì tất cả các vọng tưởng cũng trở nên yếu dần và sau cùng bị dập tắt hẳn. Giác ngộ không gì khác ngoài tiến trình tịnh hóa tâm thức. Nhờ sử dụng phương pháp này mà chúng ta đẩy lùi được những hắc ám trong tâm. Nhờ vậy mà đạt được sự thuần khiết như gương sáng.
Tôi đã nói muốn được hạnh phúc ta phải thực hành 5 học giới. Vào thời Phật có một vị Sư đã thối tâm vì phải thực hành quá nhiều học giới, trong tam tạng Kinh có 227 giới điều khiến vị đó chán nản vì không thể giữ được, Sư muốn về đời. Ðức Phật hỏi lý do thì vị ấy trả lời: “Bạch Ðức Thế Tôn, Ðạo giảo này có quá nhiều học giới, con không kham giữ nổi. Con muốn quay về đời sống thế tục”. Ðức Phật thương cảm, Ngài nói: “Con đừng thối tâm như vậy, con có thể làm được một điều”'. Vị Sư hỏi: “Bạch Ðức Thế Tôn, điều gì vậy?”. Ðức Phật dạy: “Con có thể quán sát tâm được không?”. “Thưa, con làm được”, vị Sư trả lời. Ngài tiếp: “Vậy thì con đừng bận tâm về Giới Luật quá nhiều, hãy quán sát tâm thôi, không còn gì nữa”. Nhờ vậy vị Sư đó vào rừng và bắt đầu quán tâm. Ngày đêm quán sát tâm bằng phương pháp này, bằng cách thức mà Ðức Phật đã khai thị. Nhờ vận dụng tất cả phương pháp đã nêu trên để tịnh hóa tâm, chẳng bao lâu, vị Sư đó đắc quả Alahán tối thượng, có nghĩa là vị đó đã chứng ngộ. Thế nên quý vị thử vận dụng phương pháp trên, tôi chắc quý vị cũng sẽ được Giác Ngộ.

Muốn được hạnh phúc, chúng ta phải tu tập 5 học giới, và thực sự nếu các khoa học gia phương Tây có thể kết duyên 5 học giới vào khoa học của họ thì thế giới này sẽ được hưởng niềm phúc lạc trường cửu. Nếu bom nguyên tử có thể kết duyên được với 5 học giới thì bom nguyên tử không còn nguy hiểm nữa. Con người sẽ thấy an lạc bởi vì không có quả bom nào trên vũ trụ này hiệu nghiệm và mãnh liệt hơn quả bom tình thương của Ðức Phật. Năm học giới là gì? Năm học giới được trình bày như sau:

* HỌC GIỚI THỨ NHẤT
(Không được sát hại và tàn bạo với các sinh vật)

Không sát hại sinh mạng mọi sự sống dù là loài côn trùng nhỏ nhất. Tại sao học giới sát sanh lại xếp hàng đầu. Bởi vì nơi nào có sự sống, nơi đó có hy vọng. Khi một sinh vật bị chết, nó khó có thể khôi phục được sinh mạng và nó đánh mất cơ hộì tiến lên cảnh giới phúc lạc hơn, vì lý do này mà ta không giết hại vì lòng từ bi, và cũng đừng bảo giết. Giết hại là điều hèn mạt độc ác nhất ngăn chặn đạo lộ hướng thượng.

Không ai có quyền sát hại, nếu vị đó không thể khôi phục được mạng sống chúng sanh hoặc thiết lập cho nó một tình trạng tốt đẹp hơn. Sát hại là hành vi ăn cướp xấu xa nhất, vì sinh mạng là tài sản quý giá của bất cứ chúng sanh nào. Khi một con vật đang hấp hối, nó chết với lòng căm giận, tâm lực hướng về kẻ giết nó và quyết thề cướp lại mạng sống của bạn trong kiếp sau. Vậy thì tại sao lại tạo thêm những kẻ thù không cần thiết như vậy. Nếu tâm mình tràn đầy lòng từ bi thương cảm thì không ai có thể sát hại được. Tại sao ta lại để cho tâm mình bị ô nhiễm bởi cơn giận dữ điên cuồng làm giảm thọ đời mình. Tại sao ta là người sát nhân để mọi người căm ghét. Tại sao ta không là một người đáng yêu để toàn thế giới trân trọng quý kính. Sát hại rõ ràng làm tổn thương nhân cách, hủy diệt lòng từ, làm hưng phấn thù hận, bành trướng cái TA ích kỷ, đưa đến khổ đau, tiêu tan niềm an vui hạnh phúc.

Những ví dụ về giới sát hại sinh mạng: tội tử hình, tội treo cổ.v.v...
Trong một tập sách nhan đề: “Tội tử hình”, tôi đã viết: "Thật là vô ích khi treo cổ một thân xác vì thân xác này không bao giờ chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình. Vô minh–tức là sự ngu độn–mới chính là kẻ sát nhân đích thực. Thế nên ta phải treo cổ gã Vô minh (thiếu trí tuệ) này mớì đúng. Bằng cách nào đây? Bằng cách hãy ban cho tội nhân một tri kiến Chân lý Phật Pháp.

Bất cứ ai cũng có thể đưa ra một giải pháp treo cổ Vô minh chứ?
Vô minh chính là nhân tố của mọi tội ác. Các quan tòa đã lầm lẫn một cách đáng sợ. Thay vì nhổ tận gốc tội lỗi, các vị tòa chỉ giản dị hủy diệt cái khung xác trống rỗng này.

Có lần Thánh Gandhi đã nêu rõ điều đó, vào một ngày nọ, khi có nhiều thanh niên ngoại đạo định hành hung Ngài. Bạn có nhớ không, trên báo chí đã kể lại rằng Ngài xuất hiện và nói với họ rằng: “Các cậu định làm gì? Ðiều duy nhất mà các cậu có thể làm là cướp đi cái khung xác trống rỗng của ta. Nếu muốn vậy, hãy lấy mạng ta đi, nhưng các cậu không bao giờ chiếm được linh hồn ta đâu”. Ðó là lời dạy của Phật Ðạo. Vì vậy các quan tòa chỉ luôn luôn xử treo cái khung xác trống rỗng mà nó không hề là một tội nhân chút nào.
Làm sao để cho tội nhân đáng thương này huân tập trí tuệ? Bằng cách ban phát trí tuệ (sự hiểu biết) cho tội nhân. Chúng ta cống hiến trí tuệ cho tội nhân và chúng ta treo cổ tội nhân bằng cách ban cho anh ta trí tuệ. Một khi Vô minh bị treo cổ, nó sẽ không sát hại nữa. Chúng ta sẽ không treo cổ Vô minh như treo cái cổ đáng thương kia, nó vốn hoàn toàn vô tội. Tôi chưa hề trông thấy cái cổ nào phạm tội cả. Ðiều đáng phải treo là những hành động sai trái. Tôi có thể dẫn chứng cho bạn hàng trăm ví dụ cụ thể để thấy thế giới bị điên đảo như thế nào và có người chỉ làm những điều ác ra sao.
Có hai loại ung thư: ung thư về thân xác và ung thư về tâm hồn. Nếu một người đau đớn vì ung thư thể xác, vị đó chạy đến thầy thuốc và cố gắng tự chữa cho mình. Thật là quái lạ khi một người đau khổ vì ung thư tâm hồn (ung thư nào nguy hiểm hơn thể xác và tâm hồn ), vậy mà anh ta không bao giờ quan tâm để cứu chữa, cũng không lo lắng để được chữa trị, anh ta không lo ngại gì về việc chữa trị. Anh ta nghĩ rằng mình hoàn toàn bình thường. Vậy ung thư tâm hồn là gì? Là vô minh ngu độn. Xin phép hỏi các bạn có bao nhiêu người trong chúng ta đây đang đau khổ vì bị ung thư tâm hồn. Có phải tính sơ sơ quá 99%, tất cả nhân loại đều bị ung thư tâm hồn.

Các khoái lạc giác quan là thuốc độc. Ðó là món độc dược tinh thần. Vậy mà mọi người đều ham thích. Họ đeo bám vào những thú vui của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Dù nó là chất độc nhưng họ vẫn thích và tốn kém rất nhiều tiền bạc cho độc dược này. Chẳng hạn có người mời bạn một cốc rượu sâm banh màu sắc và mùi vị khá hấp dẫn, nhưng nó có chứa chất độc. Người ngu độn cầm lấy uống hết và lăn ra chết. Còn người khôn ngoan thì nói: “Không dám, xin bạn hãy giữ rượu của bạn, tôi không dùng được”. Tuy nhiên, bạn vẫn tìm thấy hơn 99% dân chúng biết rằng trong rượu sâm banh có độc tố, thế mà họ vẫn uống và trả tiền nhiều hơn nữa. Sự thỏa mãn thị giác bảo rằng rượu sâm banh rất dịu ngọt và đáng yêu dù có chứa độc tố.

Mọi người đều thích hưởng khoái lạc thị giác rồi sinh mê đắm. Về mặt tâm linh, nếu họ chết thì chẳng có hại gì, vì vậy họ quả là những người mất trí. Hôm qua, chúng ta đã tổ chức lễ Ðộc Lập. Ðó là điều trọng đại không nghi ngờ gì nữa, nhưng thế còn sự độc lập bên trong tâm hồn thì sao? Chúng ta đều là những kẻ nô lệ cho mắt, tai, mũi... Một khi con người mà nội tâm được giải thoát như Ðức Phật, ai có thể nô lệ Ngài? Không ai cả. Tại sao? Bởi vì Ngài đã đạt được sự tự do giải thoát nội tâm. Và khi người nào được giải thoát bên trong tức là vị đó đã an nhiên tự tại bên ngoài.

Chiến tranh là sự giết hại trên bình diện qui mô. Không lọc nước có sinh vật mà uống đó là phạm giới sát. Không cứu vớt sinh vật khi nó nằm trong tầm khả năng có thể thực hiện cứu được, đó là phạm giới sát. Giả sử bạn trông thấy một ngườì đang bị chết đuối, bạn biết lội nhưng không nhảy xuống cứu người. Như vậy, bạn đã vi phạm luật Từ Bi, phạm giới sát, vì đó là sự vị kỷ. Hãy yêu thương người hàng xóm như chính mình. Vì thương người như thương thân nên bạn mới dám nhảy xuống cứu họ. Ðức Phật có lần đã nói: Hãy yêu thương mọi loài như yêu thương huynh đệ mình; như bà mẹ hy sinh thân mạng để bảo vệ đứa con duy nhất. Chính vì vậy mà chúng ta phải nuôi dưỡng hạt giống tâm từ đối với chúng sinh. Quy luật tình thương vô song này sẽ dẫn đến giải thoát.

Lại nữa, bất cứ điều gì xúc phạm đến trí tuệ cũng là phạm đến giới sát. Không hề có đức tin nào về linh hồn hiện hữu. Tư tưởng về cái Ta không nên đưa vào tu tập bởi vì niệm tưởng về Ngã là báo hiệu Vô minh. Sự Vô ngã tối thắng là con đường tu tập giới sát một cách toàn hảo.

Hãy nhớ năm học giới, cần phải học hành chúng qua tư tưởng, lời nói và hành động. Bạn có thể giết hại bằng tâm của mình nếu bạn tự mình nói: “Gã kia là kẻ thù của ta, ước gì nó chết sớm cho rồi”, tức là bạn đã sát hại bằng tâm (tâm sát) Bạn đã phạm học giới thứ nhất, về mặt tinh thần bạn có thể vi phạm tất cả các giới khác bằng tâm mình. Vì vậy, việc thực hành tu tâm cũng là đều hết sức quan trọng.

* HỌC GIỚI THỨ HAI.
(không được lấy của người khác).

Tránh lấy vật gì không được cho. Trong Phật Giáo, chúng ta không bao giờ dùng từ ăn cắp mà nói: lấy vật không cho. Bởi vì mọi thứ phải được đặt vào tay chúng ta. Lại nữa chúng ta không thể nhận nó nếu món quà không được đặt trực tiếp trong tay chúng ta. Chúng ta sinh nghi, không biết là vật này có thực sự tặng cho mình không. Nhưng khi vật đó được đặt trong tay ta thì ta không còn nghi ngờ gì nữa. Chúng ta biết đó là một tặng vật, nghi vấn liền tan biến.
Những điển hình về học giới lấy vật không cho: ví dụ như dùng cân đo gian dối, lấy lệ phí cao, nâng giá hàng, trả lương thấp cho người giúp việc, phóng đại giá trị hàng hóa, giả mạo, pha chế những hợp chất xấu hơn. Làm kém chất lượng sữa bằng cách pha thêm nước và những chất khác vào. Sự cướp đoạt cũng là hình thức ăn cướp trên bình diện rộng hơn.

Nếu có người lấy cắp một ổ bánh mì cho đứa con đang đói, vị đó có thể bị giam tù ngay. Nhưng nếu họ lấy cắp cả một quốc gia do tham quyền thì anh ta lại được tung hô là người chinh phục thế giới. Thế giới như vậy quả là điên khùng. Tôi nêu lên một ví dụ thứ hai: Khi bạn lấy cắp một ổ bánh mì, bạn có biết tại sao quan tòa phạt bạn không. Ngài phạt bạn vì lấy cắp quá ít. Ðiều mà quan tòa muốn nói là khi tòa đưa anh ta vào tù, Ngài có ý muốn nhắn nhủ: “Bạn thân thương! Bạn quá nhỏ mọn, bạn phải bị phạt vì sự nhỏ nhoi này; bởi chỉ ăn cắp bánh mì. Lần sau hãy đi ăn cắp một quốc gia. Lúc đó bạn trở thành người anh hùng chiến thắng thế giới. Dân chúng sẽ xây đài tưởng niệm, suy tôn bạn và bạn sẽ vinh quang đi vào lịch sử đất nước. Bạn sẽ tiếp đón danh hiệu vĩ đại như Alexander, Ceasar, Napoléon”. Những kẻ cướp tầm cỡ thế giới lịch sử trở nên vĩ đại vì họ lấv cắp những cái trọng đại. Họ chẳng bao giờ bị bỏ tù, bởi vì họ to lớn quá, không vào nhà tù được. Những tên cướp vĩ đại, quá vĩ đại, không lọt vào nhà tù nhỏ bé được. Không có nhà tù nào được xây to rộng đủ cho những tên cướp vĩ đại này và chính vì vậy mà họ được tự do, họ được tôn kính, bái lạy bởi những kẻ ngu si vĩ đại. Ðương nhiên, họ vĩ đại cả hai phương diện vì mỗi người đều là mẫu người đặc biệt theo khuynh hướng riêng của mình.

* HỌC GIỚI THỨ BA
(Không được có những thèm khát nhục dục)

Tránh tà dâm, dịch đầy đủ là: tôi chịu giữ giới, không phạm tà dâm. Trong Phật Giáo, chúng ta chịu nhận, còn tôn giáo khác, học giới được răn dạy, hay ban lệnh: bạn không được làm thế này hay không được làm thế kia. Người nào đó áp bức bằng cây gậy to để ép buộc bạn phải giữ gìn một số điều răn. Ðiều răn không hề được tìm thấy trong Phật Giáo. Ðức Phật cư xử với chúng ta như những triết gia. Ngài chỉ cho ta con đường chân chính (Chánh đạo). Bởi vì Ngài biết rằng chúng ta có trí tuệ, chúng ta sẽ theo con đường của Ngài. Nếu chúng ta mê mờ, kém hiểu biết, đó là lỗi của chúng ta. Ngài không sử dụng gậy to để ép buộc chúng ta giữ gìn năm học giới. Vì lòng đại bi, Ðức Phật dạy. “Nếu bạn có trí tuệ, bạn không thích đau khổ, sẽ được thoát khổ”. Nếu bạn yêu cuộc sống trong đau khổ, bạn phải giải quyết cách nào?. Bạn có thể làm gì tùy bạn muốn. Trong đạo Phật chúng ta được đối xử bằng tinh thần tôn trọng chứ không phải như con nít, bắt phải thuần phục; chúng ta không bị bắt buộc, hay cưỡng ép. Tôi không cố ý chê trách một tôn giáo nào, bởi vì Phật Giáo quá cao vời, tôi chỉ tế nhị nêu lên một vài dị biệt, bởi vì cách hay nhất để chúng ta có thể so sánh, đánh giá là đặt chiều cao của một vật khổng lồ gần bên chú lùn nhỏ xíu, lúc đó, chúng ta mới nhận ra được sự khác biệt của chúng. Chúng ta không khôn khéo dụ đạo bất cứ ai mà chỉ trình bày Chân lý, sau khi phô diễn về sự thật. Công việc như vậy là xong, cho dù người ta có chấp nhận hay bác bỏ, chúng ta hoàn toàn tự tại và công việc truyền đạt Chân lý coi như đã kết thúc.

Ta nên bằng lòng với chính người vợ của mình; cần loại trừ các tham ái trong mọi hình thức. Nhìn một đối tượng nào đó với lòng thèm muốn coi như bạn đã phạm Tà hạnh “dâm tâm”. Nếu toàn thế giới đều trở thành một đại tu viện thì quả là thiên đường cho trần gian này.

Nếu mọi người nam nữ vào rừng xuất gia tu tập thì trần gian này sẽ là thiên đường, toàn thế giới đầy những cây cối. Chúng ta có nhiều rừng khắp nơi và khí hậu vùng nhiệt đới sẽ tươi mát hơn. Nhưng vấn đề chặt đốn cây rừng thật bất lợi, chúng ta tự làm tổn hại cho chính mình, bức khổ vì nóng. Sức nóng như thiêu đốt của vùng nhiệt đới làm cho thế giới giống như sa mạc; thiếu bóng cây che mát; dân chúng lại quá đông. Thế nên nếu người ta chịu chấn chỉnh và điều phục tham vọng của mình, vào rừng xuất gia thì toàn thế giới là một cảnh rừng Thiền an lạc. Dân chúng lại ít, vì đi tu, ít sinh sản ... bạn hiểu chứ?

Các vị tại gia thân mến! Bạn đang ăn cướp cây cối của chúng tôi, bởi vì cây cối đều thuộc về những ai muốn tu Thiền định. Chặt đốn cây rừng nghĩa là các bạn đang cướp đoạt cây che bóng mát của những ẩn sĩ mong muốn tu Thiền, nhập định nơi đó.

Có lần khi tôi còn ở Ấn Ðộ, một anh chàng cùng đứng với tôi tại nhà ga xe lữa Patve, anh ta nói: “Ông là người tu theo phạm hạnh, Chúa sẽ giận ông đấy!”. Tôi hỏi: “Giận gì?”. Anh ta trả lời: “Vì ông đã theo hạnh của Phạm Thiên”. Tôi nói: “Chúa của bạn mới kỳ lạ chứ”. Anh ta lại nói: “Chúa ban cho sự sống, còn ông đang hủy diệt trần gian”. Tôi hỏi lại: “Làm sao tôi có thể hủy diệt thế gian này được”. Ông ta dõng dạt: “Vì ông không sinh sản chứ sao! Ông không sản xuất các thanh thiếu niên chứ sao!”. Tôi tiếp lời: “Ôi Chúa của bạn quả là Vì Trời đáng thương! lại cần đến sự trợ giúp của tôi mới duy trì được sự sáng thế của Ngài, Chúa tạo nên thế gian này chứ có phải tôi đâu. Tại sao tôi lạì bận tâm đến sự sáng thế. Ngài tạo ra thế gian này, hãy để cho Ngài tiếp tục duy trì thế gian nếu Ngài muốn như vậy. Nếu Chúa muốn tạo dựng thế gian thì chắc chắn Ngài phải có năng lực để duy trì nó chứ. Nếu Ngài dừng lại không cần sự trợ giúp của tôi, thì tại sao tôi lại phải chịu trách nhiệm? Nó không phải là thế giới của tôi, tại sao tôi tạo ra nó”. Rồi sau đó, tôi hỏi thêm anh ta rằng: “Anh giải thích cách nào bằng sự kiện thực tế rằng người không sáng thế lại được sùng kính tôn thờ?”. Anh ta im lặng vì không thể trả lời.

Tham tạo tác!
Sân hủy diệt!
Si tạo tác và hủy diệt!
Ðức hạnh không tạo tác!
Từ bi không hủy diệt
Trí tuệ ban cho tự tại, không sinh, không diệt!

Bậc Chân Thánh không hủy diệt. Ngài đơn giản từ chối lòng tham hay tạo tác. Theo triết học Phật Giáo, bạn đang tạo tác thế giới này hàng triệu lần trong mỗi khoảnh khắc. Nếu bạn dập tắt lòng tham thì thế giới của bạn cũng không còn vì rằng đời sống là một tiến trình trôi chảy liên tục, nó động chứ không tịnh. Ngày xưa thế giới này không phải được tạo nên trong 6 ngày mà nó được tạo nên hàng triệu lần trorng mỗi khoảnh khắc. Không có bắt đầu và kết thúc sáng tạo; mục tiêu duy nhất cho sáng tạo là hủy diệt nguyên nhân. Cái gọi là Vô minh đã tận diệt thì sự sáng tạo không còn, bởi vì Vô minh làm sinh khởi tham ái. Tham ái đưa đến chấp thủ. Chấp thủ làm phát sinh hữu–cái đang trở thành. Hữu đưa đến sinh. Sinh làm cho có già, bệnh, chết, buồn rầu, kêu ca, phiền não, đau khổ và tuyệt vọng. Nếu vô minh và tham ái tận diệt thì toàn bộ tiến trình bị bế tắt và do đó không còn sự sinh nữa. Vì vậy chính tham ái đã tạo tác; còn đức hạnh thì tận diệt. Nhưng tham ái tạo tác điều xấu chứ không phải điều tốt. Ðức hạnh hủy diệt điều xấu chứ không  tiêu trừ điều thiện. Tham ái tận diệt trần gian thống khổ này, chính nó chỉ là một tiến trình trống rỗng. Trí tuệ diệt trừ si mê, phát sinh cái thực tại cao siêu nhất của chân lý Vô thường. Nếu bạn ưa thích trần gian này thì bạn buộc phải ghét bỏ Niết Bàn. Nếu bạn ưa thích Niết Bần thì bạn sẽ chán ghét trần gian. Bạn không thể ghét bỏ cả hai. Nếu bạn muốn trần gian thì bạn phải goodbye Niết Bàn. Nếu bạn muốn thực tại thì bạn phải goodbye trần gian– thế giới không thực này. Vậy ai từ bi nhiều hơn? Người tại gia hay xuất gia? Người xuất gia từ bỏ gì? Vị đó từ bỏ thế giới trống rỗng–không mà có. Còn người tại gia từ bỏ gì? Anh ta từ bỏ thực tại Niết Bàn để lấy cái không, vì trần gian trống rỗng này. Vậy ai là người từ bỏ vĩ đại nhất? Người tại gia hay xuất gia? Người xuất gia không từ bỏ gì, duy chỉ có trần gian trống rỗng này. Người xuất gia không từ bỏ nhiều nhưng người tại gia thì từ bỏ Niết Bàn và là người từ bỏ lớn lao nhất, thiệt thòi nhất.

* HỌC GIỚI THỨ TƯ
(Không đựơc nói sai, nói xâu, nói ác, nói phiếm)

Tránh nói vọng ngữ, có bốn loại: nói láo, nói vu khống, nói thô bạo hay vô lễ, nói chuyện phù phiếm, vô nghĩa, chuyện tầm phào, vô ích cần phải từ bỏ. Tại sao bạn là người đa ngôn, nhiều chuyện? Bạn không nhận ra rằng thế giới đang bốc lửa hay sao? Bạn vẫn còn ngồi tán gẫu chuyện trời mây trong ngôi nhà đang cháy. Ða ngôn, đa sự là chứng bệnh của thời đại. Các chủ biên báo chí đều là những người phóng đại to nhất. Sống một mình là điều thuận lợi cho nhà tu. Yên tĩnh là cuộc sống tu học thiêng liêng của tôi, không ai có thể lấy đi đươc. Tôi sẽ sống độc cư và tận hưởng cái KHÔNG nơi hang động tâm hồn của mình.

Bạn hãy dùng thức ăn bồi dưỡng tâm linh hằng ngày. Tại sao ta đói khát tinh thần. Nếu bạn bị mất một bữa ăn, chấc chắn bạn sẽ la hét, quạu quọ đủ điều. Nhưng khi ta mất nhiều bữa ăn tinh thần thì không thấy ai kêu ca gì cả. Hãy bồi dưỡng thức ăn tinh thần cho tâm thức. Toàn thế giới đau khổ vì đói khát thức ăn tinh thần. Món ăn tinh thần sẽ đưa đến an lạc cho thế giới. Vậy món bồi dưỡng tinh thần là gì? Hãy giữ năm học giới. Chúng ta cần thức ăn trong sạch cho tâm hồn. Chúng ta hãy tẩy chay các chủ hiệu sách buôn bán các truyện giết người, tội phạm, tình dục, bởi vì họ đã dần dần biến nhân loại thành thùng rác. Do đọc các đồ phế thải nhơ bẩn đó bạn cũng bị ô nhiễm cùng khắp. Chúng ta nên đọc những bản kinh lợi lạc thù thắng nhất và nhờ vậy được tịnh hóa chính mình, bởi vì kinh Phật linh diệu có tác dụng như xà phòng tâm linh làm trong sạch bổn tâm chúng ta.

* HỌC GIỚI THỨ NĂM.
(không được uống rượu hay những chất làm say)

Tránh bất cứ trạng thái uể oải, suy nhược nào phát sinh do sử dụng các chất say. Tôi đã lưu ý rằng giới điều này không có trong mười điều răn. Chúng ta nên loại bỏ các thức uống có tính chất say sưa làm uể oải, ngủ nhiều, kể cả cần sa, á phiện.

Uống rượu là tự phá vỡ toàn phần các học giới. Vì dưới ảnh hưởng của rượu, một người say có thể giết hại, lấy cắp, nói láo, tà dâm và càng uống nhiều hơn nữa.

Phật Giáo là một phương pháp điều tâm hoàn hảo nhất. Trong Phật Giáo, tâm sở hữu mọi thứ nên phải luôn luôn duy trì mức độ có hiệu năng cao nhất, bởi vì chỉ có tâm tư duy trong sạch mới có đủ năng lực phát huy trí tuệ để một ngày nào đó trí tuệ mới đẩy lùi được mọi si mê ám chướng và ban cho ánh sáng Giác Ngộ. Vậy thì không phải hoàn toàn điên khùng sao khi bạn làm mờ tâm trí, gây chết người do uống rượu, hậu quả là đốn phá con đường thẳng tiến đến Niết Bàn của chúng ta. Ðây là năm học giới trong Phật Giáo. Chỉ có năm chứ không phải mười. Theo học giới thứ nhất, chúng ta không được phép giết hại ngay đến con vật nhỏ bé nhất. Và theo học giới thứ năm, chúng ta không được phép uống rượu, cần sa, ma túy và các chất say tương đương.

Những nhà truyền giáo từ phương Tây có vẻ tốt lòng với người phương Ðông, họ đang đẩy hết tốc lực đưa hàng triệu đô la để hóa đạo đám bất trung, tà giáo, ngoại đạo, chạy theo đường lối tư duy của họ. Có thể họ cống hiến điều gì đó tốt đẹp hơn điều chúng ta đã có rồi. Chúng ta có năm giới, khi các nam sinh là Phật tử, họ không được phép sát hại hay uống rượu. Dù sao chúng ta cũng phải ngưỡng mộ cái năng lực kinh khủng của các nhà truyền giáo Thiên Chúa để rồi giờ đây chúng ta bị tiêm nhiễm với năng lực dụ đạo kinh hồn của họ. Nay chúng tôi đang di chuyển về phương Tây để đáp lại lòng bao dung rộng lượng đó. Vì cần phải có sự trao đổi văn hóa song chiều như vậy. Chỉ có sự trao đổi chân tình này mới tạo sự hiểu biết thông cảm lẫn nhau hơn giữa các quốc gia, đưa đến hòa bình, thiện chí khắp các nước trên trái đất này. Và chính vì vậy mà chúng tôi sắp sang nước Mỹ. Singapore chỉ là chặng đường tạm dừng. Ðó là chặng đường thứ ba. Chúng tôi đã đi Ragoon, Penang, Kuala Lum pur và giờ đây là Sigapore, Manila, Hong Kong, Honolulu và sau cùng là San-Francisco. Ðây là chuyến đi Hoằng pháp, cứ ba ngày ở đây năm ngày ở kia. Chúng tôi sắp đến các bang dạy họ về năm học giới để họ biết sống thương yêu cả loài vật với lòng từ bi vô lượng vô biên. Thật là sai lầm nếu ai có tâm yêu thương con vật này mà ghét bỏ con vật kia. Chúng ta phải vô tư tất cả, yêu thương bạn bè và kẻ thù như nhau. Khi Ðức Phật được hỏi Ngài thương yêu ai nhất giữa Devadatta- kẻ gây chia rẽ và Rahula con trai của Ngài. Ðức Phật trả lời Như Lai yêu quý cả hai như nhau.

Tình yêu của người chồng đối với người vợ vẫn là vị kỷ. Anh ta chẳng khác gì con ếch ngồi đáy giếng. Gia đình là giếng của anh ta. Lẽ ra anh ta phải yêu thương và bảo vệ toàn khắp thế giới bao la này, coi toàn thể vũ trụ này là một gia đình vĩ đại. Vì vậy Ðức Phật đã dạy: “Thật khó mà tìm được một chúng sanh duy nhất chưa từng là mẹ, cha, con trai, con gái mình trong những kiếp qua”.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh đức Thế Tôn dạy: “Ðệ tử dòng cao quý phải quán tâm như vầy: ở đây ta đang yêu đời, không muốn chết, ta thích lạc thú và không thích đau khổ. Giả sử có người nào đó cướp lấy đời sống của ta (người ấy cũng thích sống như ta, không muốn chết, thích mọi lạc thú và không thích khổ đau). Ðó không phải là điều thú vị làm cho ta phấn khởi”.

Ðến lượt mình, nếu ta cướp đoạt cuộc sống của người cũng thích sống và không muốn chết, người thích lạc thú và không thích đau khổ, đó không phải là điều thú vị làm cho anh ấy phấn khởi. Vì tình trạng như vậy không làm ta hài lòng hay phấn khởi, đối với anh ấy cũng tương tự. Làm sao ta có thể gieo đau khổ như thế cho người khác, nhờ thành quả của sự quán niệm như vậy, vị đó tự tránh sát hại chúng sanh và khuyến khích người khác tránh sát hại. Ðồng thời tán thán hành động không sát sanh. Ðược vậy coi như đã giữ được tịnh giới về thân, vị đó hoàn toàn trong sạch. Ðệ tử giòng cao quý lại quán niệm như vầy: nếu ai lấy cắp của ta hẳn điều đó không làm ta hài lòng. Nếu ta lấy cắp của anh ấy, điều đó hẳn không làm anh ấy vui lòng. Ðiều gì không làm cho ta hoan hỷ thì cũng sẽ không làm cho người khác hoan hỷ. Hãy đặt mình vào vị trí giống như người khác, ta sẽ tránh được tội lấy cắp. Do vậy vị đó trở nên hoàn toàn trong sạch (v.v... đối với các học giới khác).
Tôi vừa nêu lên đạo lý rất sơ đẳng của Phật Giáo (5 học giới). Người ta có thể phàn nàn: “Bộ Ngài Giảng Sư tưởng chúng tôi là học trò mẫu giáo trong vườn trẻ chăng? Chúng tôi đang ở Sigapore, người dân đa phần là trí thức muốn học hỏi triết lý cao siêu. Ở Sigapore không cần đạo lý sơ cấp”. Thế nhưng những điều tôi nói là căn bản, nếu khộng thực hành năm học giới thì làm sao quý vị có thể nhận thức được trình độ cao cấp hơn. Hãy nhớ 99% chúng nhân đang ở lớp sơ cấp Phật học; rất ít người đạt đến ở mức độ cao hơn, và còn ít hơn nữa, người đã tốt nghiệp. Vì vậy đa số những bài học ở vườn trẻ họ đều mãn nguyện với những gì có trong vườn trẻ.
Nhân đây chỉ nêu lên cho quý vị một ý chính ngắn gọn về triết học Phật Giáo như tôi đã đề cập trước kia. Trong Phật Giáo các sự vật đều coi như đang biến động trôi chảy liên tục. Các triết gia Hy Lạp cũng nói mọi vật đều trôi chảy. Khoa học cũng khẳng định tương tự và Ðức Phật cũng dạy như vậy, Ngài nói các Pháp đều là một dòng biến động liên tục. Bạn có những nguyên tử, điện tử và Proton có điều là Ðạo Phật không chấp nhận có linh hồn. Ðời sống là tiến trình của sự liên tục trở thành. Chúng ta mỗi lúc mỗi trở thành và chẳng bao giờ trở thành. Vậy thì ai là người trở thành? Bậc Alahán đã trở thành. Trở thành gì? Trở thành một thực tại, một trạng thái bất biến. Chúng ta không bao giờ trở thành mà vẫn đang trở thành. Một khi tiến trình trở thành dừng lại, lúc đó ta mới trở thành. Và ở đó không còn có sự đang trở thành nữa cho vị đó. Ðức Phật đã trở thành một lần và xong tất cả. Ngài không bao giờ trở lại thế gian này. Ngài có thể không bao giờ tiếp tục trở thành. Tiến trình trở thành đã vĩnh viễn ngưng hắn. Ngài đã trở thành một hiện thực (bản chất có thực) và sự thực có thể không bao giờ nhập lại thế gian nữa.
Bạn phải nhận thức rằng Ðức Phật chỉ thị hiện khi nhân loại hân hoan tiếp nhận thông điệp của Ngài. Không thể tiêu phí thời gian mà không được gì. Ngài không định ném những hạt ngọc trai vào đàn heo. Ngài chỉ ném những viên ngọc cho những ai trân trọng, đánh giá được nó. Ngài rất tiết kiệm thời giờ. Thật là vô ích cho những ai giẫm đạt những viên ngọc đó dưới chân mình. Ðức Phật sẽ trở lại, không phải vị Phật tương tự mà là Ðức Phật Gautama, một vị Phật mới. Khi Ðức Phật xuất hiện cách đây 2500 năm, Ấn Ðộ bấy giờ đã vào thời kỳ văn minh, tịnh lạc ở đỉnh cao. Nhớ rằng cách đây 2500 năm toàn Ðông Phương tràn ngập trí thức. Ở Ấn Ðộ có Ðức Phật Thích Ca, ở Trung quốc có Khổng Tử và Lão Tử, ở Hy Lạp có Platon và Socrates và nhiều Thánh nhân khác. Ðó là thời kỳ trăm hoa đua nở. Vậy thì tại sao Ðức Phật xuất hiện. Rõ ràng Ngài chỉ đến khi nhân gian xứng đáng được sự hiện diện của Ngài, khi họ không đánh mất nhân tính của mình. Trong Phật Giáo, chúng ta nói rằng Ðức Phật thị hiện khi nhân gian có đủ duyên lành chân thiện và quốc độ này có đủ khả năng nhận thức được hào quang chân lý của Ngài.

Quý vị phải nhớ rằng gương mặt của tôi có thể là gương mặt của một người ngoạì quốc, có màu da khác. Nhưng có lẽ tôi còn “Ấn Ðộ” hơn cả người Ấn Ðộ nữa. Ðể tặng quý vị một ví dụ nhỏ: Ông A và bà B gì đó đang mặc y phục Tây Phương, y phục của người Âu Châu. Tôi đang khoát y phục cổ Ấn Độ. Bạn là một người Ðông Phương lại ăn mặc kiểu Tây phương. Tôi là người Tây phương lại ăn mặc kiểu Ðông Phương. Vì vậy thế giới hình như ngược đảo cả, đủ minh họa cho tính cách phức tạp, lộn xộn của trần gian. Xin quý vị đừng phật ý vì đây chỉ là trò vui đùa trong câu chuyện. Vì có khôi hài mới làm sáng lên cái triết lý sâu xa, lại nữa, hình như quý vị đang buồn ngủ.

Do thành quả công đức vô lượng mà quý vị đã đạt được nhờ kham nhẫn lắng nghe bài Pháp thật dài này. Nguyện cầu tất cả ước vọng cao đẹp của quý vị được hoàn thành viên mãn. Nguyện cầu tất cả thính chúng sớm đạt được Niết Bàn tối thượng.

Trích: ĐỨC PHẬT VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ Dịch giả: TT Thích Giải Thông-Phỏng dịch theo bản tiếng Anh The light of truth của Giảng sư LOKANATHA Do The Singapore Maha Bodhi School xuất bản

Nguồn bài viết



Thứ Tư, 29 tháng 1, 2014

Cương yếu để tu


(HT Thích Thanh Từ giảng)



Hồi xưa có Thiền sư Đạo Lâm ở Trung Quốc, Ngài rất quyết tâm tu hành. Để đạt được kết quả như sở nguyện, Ngài dùng cây cột thành chỗ ngồi như một ổ quạ, trên cháng ba của một cổ đại thụ. Ngài ngồi trên đó tu. Đương thời người ta không biết tên Ngài là gì nên họ gọi là Ô Sào Thiền sư. Ô là quạ, sào là ổ, Thiền sư ngồi tu trên ổ quạ. Do quyết tâm tu nên chẳng bao lâu Ngài ngộ đạo. Từ đó, tiếng đồn vang khắp.

Khi ấy Bạch Cư Dị là một thi sĩ nổi tiếng và rất mến mộ đạo Phật. Nghe Ngài là người được đắc đạo nên ông tìm tới. Dưới gốc cây, ông nhìn lên chắp tay thưa: “Bạch Hòa thượng, cúi xin Ngài vì con nói pháp cương yếu, để con theo đó mà tu.” Ngài liền đọc bài kệ, nguyên văn chữ Hán là:

Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.

Dịch:

Chớ làm các điều ác
Vâng làm các điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Đây lời chư Phật dạy.

Nghe bài kệ ấy xong ông cười, nói:

- Bạch Hòa thượng, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc, Ngài dạy cho con làm gì!

Thiền sư nói:

- Phải, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc, nhưng ông già tám mươi làm cũng chưa xong!

Bài kệ này thường được in trong lá phái qui y của quí Phật tử đó. Chư Phật đã dạy như thế, chớ không phải chỉ một đức Phật thôi. Chúng ta nên lưu tâm cho rõ. Tôi sẽ thứ tự giải thích bốn câu kệ này cho quí vị thấy tầm vóc quan trọng của nó.

Chư ác mạc tác là không làm các điều ác. Điều ác là những điều gì? Phật dạy tất cả người tu khi bước chân vào đạo, đều phải giữ giới. Nếu cư sĩ thì giữ năm giới; người xuất gia thọ Sa-di giữ mười giới, Tỳ-kheo giữ hai trăm năm mươi giới; Tỳ-kheo ni ba trăm bốn mươi tám giới… Như vậy bước đầu vào đạo là phải giữ giới. Giữ giới là để ngăn ngừa không làm những điều tội lỗi. Cho nên trong giới luật thường có câu phòng phi chỉ ác, tức là ngừa đón, ngăn dứt tội ác. Người bước vào đạo, Phật bắt phải giữ giới để ngừa đón, chặn đứng không cho làm những điều tội ác. Giới không cho chúng ta rơi vào hầm sâu, hố thẳm, nên giới là hàng rào để ngừa đón sự nguy hiểm cho chúng ta. Người tu xuất gia hay tại gia, đều phải có hàng rào để ngừa đón tội lỗi. Nếu không có hàng rào đó, chúng ta dễ rơi vào những chỗ nguy hiểm, hậu quả không an vui mà còn dẫn đến nhiều khổ đau khác nữa.

Tôi nói gần nhất là giới của cư sĩ tại gia. Phật không cho sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, xì ke, ma túy… Phật cấm không được làm những điều này. Nếu Phật tử làm thì sẽ dẫn đến đau khổ, tội lỗi. Bước đầu vì sợ tội, sợ phạm nên quí vị không làm những điều đó, tức là không làm điều ác.

Các hành động như giết người, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu say… có ác không? Năm điều đó là tội ác cho nên chúng ta ngừa đón, không làm, không làm tức là giữ giới. Nhờ giữ giới nên tránh được tội ác. Tránh được tội ác rồi, kế đó chúng ta mới làm các việc lành. Làm các việc lành như tu Thập thiện, tức là mười điều lành của người tu Thiên thừa Phật giáo. Người tu Thập thiện sau khi chết sẽ sanh về cõi trời. Trong mười điều lành đó thân có ba, miệng có bốn, ý có ba điều.

Thân có ba là: “Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm”. Miệng có bốn là: “Không nói dối, không nói lời hung dữ, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thêu dệt”. Ý có ba là: “Bớt tham, bớt sân, bớt si”. Người tu không làm mười điều ác đó sẽ được sanh về cõi lành. Như vậy bước đầu của người tu Phật là phải ngăn chận dòng tội lỗi. Không gây tạo tội lỗi là bước thứ nhất trên đường tu. Người theo đạo Phật mà không chịu giữ giới là người không biết tu.

Trong mười điều đó: thân ba, miệng bốn, ý ba. Chúng ta có thể giữ được thân, miệng nhưng ba điều của ý, quí Phật tử có giữ được không? Thí dụ về tham, cái tham hết sức nhỏ như tham ăn. Bình thường thấy gà vịt nuôi sẵn ở nhà cũng thương, nhưng khi đã thèm ăn rồi thì cứ đè xuống cắt cổ. Nó giãy giụa mấy cũng mặc, đâu có xót xa chút nào, miễn được ăn ngon thôi. Vì miếng ăn mà chúng ta tàn sát chúng sanh không thương tiếc!

Nên tôi nói người tu ăn chay có lợi rất lớn, dễ tăng trưởng lòng từ bi. Thí dụ chư Tăng Ni ăn chay trường, khi ra đường có những hồ ao gần bên, cá dưới ao nhảy lên bờ giãy giụa, quí vị thấy thế thì sao? Thấy thương, lượm bỏ xuống hồ. Còn người không ăn chay trường, thấy thì sao? Thì mừng, lượm bỏ vô giỏ. Như vậy có một việc thôi, mà người ăn chay trường thấy thương, còn người ăn mặn thì thấy là món ăn ngon nên lượm bỏ vô giỏ.

Cái khổ sợ kinh hoàng của nó, mình không một chút xót thương. Rõ ràng người tu ăn chay thì có lòng từ đối với chúng sanh hơn. Người tu mà còn tham ăn ngon là còn sát phạt sanh vật khác, không biết thương tiếc mạng sống của nó. Từ tham ăn rồi tới tham tiền, tham của.

Tham tiền, tham của thì sao? Thì ra đường thấy ai làm rơi bóp lượm lên. Lượm được mừng quá giấu luôn. Như vậy do tham, dù không trực tiếp ăn cắp, nhưng đã gián tiếp làm việc đó rồi. Người mất của họ buồn rầu, mình lượm được thì mừng vui. Tức là vui trong sự đau khổ của người khác. Như vậy có tội không?

Chúng ta thấy từ tham làm ra bao nhiêu tội ác. Sân cũng vậy. Khi nào nổi nóng ít ai bình tĩnh, sáng suốt nói lời tốt lành. Người ta nói trái ý, mình nổi giận liền kêu tên chửi mắng. Do giận dấy lên, chúng ta mất hết trí khôn nên nói bậy, gây ra tội lỗi. Người tu phải bớt nóng giận. Chẳng riêng gì giới Phật tử cư sĩ mà kể cả người xuất gia có hết được nóng giận chưa? Bình thường quí vị sợ nhưng tới nổi cơn lên thì hết sợ! Để thấy khi nổi giận lên thì trí tuệ sáng suốt bị khuất lấp đi, không còn nữa nên nói bậy, làm bậy.

Trong gia đình Phật tử cư sĩ, vợ chồng có tình ràng buộc từ buổi đầu cho tới ngày nhắm mắt. Nhưng khi nổi giận thì bất kể, nói những lời hết tình hết nghĩa, làm cho tan nát cả gia đình. Thế thì nóng giận có phải là tội ác không? Nếu chúng ta bớt nóng giận thì bớt tội ác. Đó là một cái lẽ thật. Người tu phải làm sao tự mình kềm chế. Ở đây tôi nói bớt thôi, chớ chưa dám nói hết. Thí dụ trước kia quí vị nóng một trăm phần trăm, kể từ nay về sau, mỗi tháng bớt xuống chừng mười phần trăm. Như vậy tới cuối năm sẽ hết hoàn toàn. Dứt được sân thì mình bớt khổ và những người chung quanh cũng bớt khổ. Nóng giận làm cho người ta mất hết lương tri, mất hết trí tuệ. Những việc không nên làm mà cứ làm là điều hết sức nguy hiểm.

Thứ ba là si mê. Sao gọi là si mê? Nhiều vị khi bị người ta nói “Chị khờ quá!” nổi giận liền. Nói “khờ” còn nhẹ, nói “ngu quá!” thì sao? Nổi giận đùng đùng lên. Bởi cho rằng người ta nói ngu là xúc phạm đến giá trị của mình, làm cho mình mất hết uy tín, danh dự… Nếu nghe nói ngu mà cứ cười: “Họ nói mình ngu mà mình không ngu thì thôi”, như vậy khỏe biết mấy. Phải chi họ nói ngu mà mình ngu liền thì nổi giận là đúng. Người ta nói ngu mà mình không ngu thì thôi, có hệ trọng gì. Vậy mà không bao giờ chịu. Người xưa còn nói: “Càng học thấy càng dốt”, đây là câu nói của hàng thánh nhân chớ không phải thường.

Học nhiều lẽ ra phải thông minh, sao “càng học càng thấy dốt”? Bởi trên thế gian cả trăm cả triệu ngành nghề khác nhau. Thí dụ như chúng ta học nghề bác sĩ y khoa, giỏi về bệnh trạng, biết thuốc trị cho bệnh nhân hết bệnh, đó là bác sĩ hay. Nhưng nếu đưa ông bác sĩ qua ngành điện hoặc ngành hóa chất hay các ngành tầm thường hơn như thợ hồ, thợ mộc thì ông có biết gì không? Như vậy trăm ngàn nghề, mình biết có một nghề, còn bao nhiêu nghề không biết, thì đâu gọi là khôn hoàn toàn. Mình biết có một phần trong muôn phần thì vẫn còn ngu, chưa thể gọi là thấu suốt được hết.

Ngu mà biết ngu là chưa thật ngu. Ngu mà không biết ngu đó mới thật là ngu! Khi nghe người ta nói mình ngu, mình cười thôi: “Trong trăm nghìn muôn ức việc, tôi biết có một hai việc thôi bảo ngu là phải.” Nói như vậy có thiệt thòi giá trị của mình không? Người bàng quan nghe thế, họ chê cười hay là khen ngợi? Chúng ta có những thứ si mê hết sức là vô lý, không đáng si mê mà cứ si mê. Từ si mê không chấp nhận mình ngu nên sanh ra sân. Từ sân gây tai họa nguy hiểm thêm.

Trong kinh A-hàm, Phật có kể câu chuyện:

Có một thầy Tỳ-kheo tu hành rất chân chánh, ngài tránh xa quần chúng, tu trong một khu rừng. Những tiều phu hái củi thấy thế, họ về nói lại trong xóm nghe. Trong xóm, có một thiếu nữ rất tâm đạo, nghe vị Tỳ-kheo tu chân chánh như thế, nên cô xin phép ba mẹ mỗi ngày bưng một bát cơm vào rừng cúng dường cho thầy. Thấy thế, xóm làng nghi ngờ cô gái có tình ý với thầy. Họ đồn bậy, cô buồn nên không dâng cơm nữa. Trước khi không dâng cơm, cô thưa với thầy:

- Thưa Thầy, con đã phát tâm cúng dường cho Thầy, nhưng bây giờ xóm làng đàm tiếu, nói con có ý riêng với Thầy, nên con không dám dâng cơm cho Thầy nữa.

Nghe xong thầy Tỳ-kheo ấy buồn, vì nghĩ mình tu chân chánh thế này, mà người ta đàm tiếu những chuyện không hay, thôi thì chết đi cho rồi. Thầy mới làm một dây thòng lọng treo trên cây cổ thụ. Lúc thầy vừa đưa cổ vào dây, có vị thần hiện ra hỏi:

- Tại sao Thầy lại tự tử?

Thầy trả lời:

- Tôi tu hành chân chánh mà bị người ta đồn có tình ý với cô gái cúng dường cơm cho tôi. Vì vậy tôi xấu hổ, muốn tự tử chết cho rồi.

Vị thần đó hỏi:

- Thưa Thầy, nếu người ta đồn Thầy chứng quả A-la-hán, lúc đó Thầy có thành A-la-hán không?

- Nếu tôi chưa chứng A-la-hán, mà bảo tôi chứng A-la-hán, tôi cũng đâu thành A-la-hán được.

Vị thần hỏi:

- Vậy nếu người ta nói Thầy có tình ý xấu mà Thầy không có, tại sao Thầy lại tự tử?

Nghe thế, thầy Tỳ-kheo mở thòng lọng xuống bỏ. Sau một thời gian tinh cần, thầy chứng quả A-la-hán.

Câu chuyện đó nói với chúng ta điều gì? Dư luận khen chê có thật hay không? Thí dụ quí vị tu chưa tới đâu, mà nghe nói “Thầy đã chứng A-la-hán, Thầy đã là Bồ-tát rồi,” quí vị có mừng không? Lời khen mà không có lẽ thật thì cũng vô giá trị. Ngược lại, nếu người ta nguyền rủa: “Thầy tu lôi thôi quá coi chừng đọa địa ngục”, quí vị nổi giận không? Nếu mình tu thanh tịnh, người ta nói đọa địa ngục, mình có đọa đâu mà sợ. Nên cứ cười thôi, đâu có gì phải nổi nóng.

Trên thế gian người ta nói xấu, nói tốt đâu có giá trị thật. Vậy mà ai hơi xúc phạm là mình nổi nóng lên, la hét om sòm. Đó là si mê rồi. Nếu chúng ta không si mê thì cuộc sống có phải an lành không? Nên đạo Phật thường dạy chúng ta phải tránh si mê. Bởi vì si mê là nhân đưa chúng ta đến đau khổ. Nên bớt si mê là bớt khổ đau. Nếu còn si mê là còn đau khổ.

Muốn hết si mê chúng ta phải thường quán chiếu đúng với lẽ thật. Vì vậy người tu Phật đi vào đạo bằng trí tuệ, chớ không phải bằng cầu xin. Nhưng hiện nay chẳng những Phật tử, mà kể cả người tu cầu xin nhiều hơn vận dụng trí tuệ.

Phật tử tới chùa dâng một dĩa quả rồi lạy, thầy hay cô đánh chuông, bảo: “Phật tử nguyện gì thì cứ nguyện đi.” Thế là một đàng nhận, một đàng xin, Phật tử cứ thế mà cầu: “Nguyện cho gia đình con được bình an, cho con cái học giỏi, cho làm ăn phát tài…” Rõ ràng cúng Phật ít mà xin thì quá nhiều. Như vậy có phải tham không? Phật dạy bớt tham, bớt sân, bớt si mà chúng sanh tham như vậy, Phật biết làm sao? Chỉ còn lắc đầu.

Chúng ta tu mà không hiểu được lời Phật dạy, làm sao tu theo Phật được. Đến chùa, nếu có cầu nguyện, người Phật tử hiểu đạo nên nguyện thế này: “Nguyện Tam Bảo chứng minh hộ độ cho tất cả chúng sanh đều hết mê lầm, hết đau khổ.” Như vậy là quá đủ. Bởi vì trong chúng sanh đã có mình rồi. Còn xin cho một mình mình thì tham lam, ích kỷ quá, Phật đâu có vui. Nhiều khi tôi cũng hơi buồn khi thấy Phật tử có ý trao đổi nhiều quá.

Thí dụ Phật tử cúng cho thầy hoặc cô, mỗi tháng năm ba trăm gì đó. Một hôm có người nhà ấm đầu, bèn đến nhờ thầy cầu an giùm. Thầy bận việc không đi tới nhà được thì buồn liền, thầy không thương mình. Như vậy cúng để mong thầy bảo bọc cho gia đình. Bệnh, chết hay trong gia đình có chuyện gì, nhất nhất thầy đều phải có mặt để cầu cúng. Như vậy cúng chùa giống như đóng tiền bảo hiểm vậy. Cho nên từ sự hiểu lầm của Phật tử mà Tăng Ni trở thành khó xử. Bởi khi nhận của cúng dường tức là thiếu nợ Phật tử. Phật tử yêu cầu mà không làm theo thì Phật tử buồn, không đi chùa nữa. Cho nên chiều Phật tử, Tăng Ni đi cầu cúng hoài, thành ra đánh mất ý nghĩa và giá trị thực của một tu sĩ.

Phật tử sáng suốt, hiểu và hành đúng đạo lý, thì Tăng Ni dễ tu, dễ hóa duyên. Nói vậy không có nghĩa tôi qui lỗi về hết cho quí Phật tử. Đôi lúc thầy cô cũng nhiệt tình quá, Phật tử chưa kịp mời mà quí vị đã hưởng ứng trước rồi! “Nghe nói ông thân của cô bệnh nhiều, thôi để chiều nay thầy tới cầu an cho.” Sốt sắng quá nên thành thói quen. Bây giờ chúng ta phải sửa lại. Làm việc gì phải xét xem việc đó có hợp với chánh pháp, với đạo lý không. Không nên làm những việc sai lầm, trái với những lời Phật dạy.

Chúng ta tu theo Phật là mở sáng trí tuệ. Trong kinh Phật thường dạy si mê là tăm tối, trí tuệ là sáng suốt. Tuy si mê là nhân của tham sân, nó khó trị, nhưng nếu biết trị thì dễ lắm. Như trong ngôi nhà tối lâu năm không có người ở, bây giờ muốn cho hết tối, chỉ cần đốt lên một ngọn đèn, hay đem một cây đuốc đến là ngôi nhà sáng liền.

Như vậy muốn hết tối, chỉ dùng ánh sáng. Ánh sáng mới phá tan si mê, tăm tối. Trí tuệ cũng vậy, nó giúp chúng ta diệt được vô minh. Như chúng ta hiểu sai lầm về việc cầu cúng, khi được nghe quí thầy giảng giải liền nhận ra, sửa đổi ngay là chúng ta đã sáng rồi. Đâu phải đợi mười năm, hai mươi năm mới sáng. Nghe, biết trước kia mình mê lầm, bây giờ bỏ mê lầm, bỏ chấp trước là hết mê lầm. Hết mê lầm là trí tuệ, rất nhanh.

Nên Phật dạy chúng ta tu phải thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ. Có đuốc trí tuệ rồi, chúng ta mới giải hết được những nỗi khổ đau. Bởi mê lầm cho nên chúng ta đau khổ, nếu hết mê lầm thì hết đau khổ. Ví như người đi lạc trong rừng, không biết lối ra. Lúc đó lao đao lận đận, tìm chỗ này chỗ kia nhọc nhằn khổ sở mà vẫn không ra khỏi rừng. Đến khi gặp được người chỉ đường, nắm vững lối đi rồi, cứ theo đó mà ra thì hết lạc lầm. Hết lạc lầm thì hết đau khổ. Nên chỉ có trí tuệ, thấy rõ được lối đi mới hết đau khổ. Không có trí tuệ thì chúng ta mãi khổ đau.

Tăng Ni cũng như Phật tử, không nên nghĩ dùng thật nhiều công phu mới gọi là chuyên tu. Chúng ta mở sáng trí tuệ mới đúng là chuyên tu. Phật dạy chúng ta bước từng bước, ngăn ngừa không cho rơi vào tội lỗi, đó là giữ giới. Từ giữ giới, tiến lên loại trừ tham, sân, si để tâm được trong sạch, đó là bắt đầu có trí tuệ. Như thế dần dần đi tới chỗ bình an.

Đó là câu thứ nhất “Chớ làm các điều ác”.

Đến câu thứ hai “Chúng thiện phụng hành”, tức là vâng làm các điều lành. Nhiều người nghĩ rằng làm lành, làm phước thì tốn của tốn công. Như vậy là thiệt thòi cho mình. Hiểu thế là sai lầm. Tôi dẫn câu chuyện của người xưa kể lại:

Có anh chàng nghèo nọ ở trong một xóm toàn là người khá giả. Khi ấy có người hỏi:

- Trong xóm toàn là người khá giả, một mình chú nghèo, chú có buồn không?

Anh trả lời:

- Tôi tuy nghèo nhưng được ở trong một xóm khá giả, chẳng những tôi không buồn mà còn vui nữa.

- Tại sao?

- Bởi vì tất cả mọi người đều khá, chỉ có mình tôi nghèo. Khi thiếu thốn, tôi qua nhà này nhà kia mượn tiền, ai cũng giúp đỡ được cả. Như vậy tuy nghèo mà không đến nỗi khổ, vì có người giúp tôi.

Như vậy người nghèo thấy người giàu khá trong lòng mừng vui, không đố kỵ thì mọi người đều thương mến, nên họ sẵn sàng giúp đỡ những lúc khó khăn. Còn nếu nghèo mà sanh tâm đố kỵ nói xiên nói xéo người ta, thì dĩ nhiên họ oán ghét mình. Đã thế thì đâu ai thương và giúp đỡ nữa. Vậy mang tâm đố kỵ là khôn hay dại? Nhưng con người mang cái bản ngã trầm trọng, thấy thua người ta là đố kỵ, ganh ghét liền.

Chúng ta cứ nghĩ tài sản trong tay mới thật là của mình, còn của người khác thì không dính dáng gì tới mình. Nhưng không phải như vậy. Anh chàng nghèo mà cả làng đều thương, ai cũng sẵn sàng giúp đỡ thì anh cũng cảm thấy hạnh phúc an vui. Còn người giàu mà tâm keo sẻn, ích kỷ, bo bo canh giữ sự sản của mình, không ai thương hết thì khi gặp khổ vẫn cứ khổ như thường.

Ta cứ mong cho mọi người được sung sướng, còn phần mình không quan trọng. Lo cho mọi người, mới nhìn thấy như thiệt thòi nhưng sự thật lo cho người tức là lo cho mình. Tại sao? Bởi vì trong xã hội, cuộc sống luôn liên đới nhau giữa mình và mọi người, không thể tách rời được. Nếu mọi người được vui, được no ấm thì mình mới yên vui. Còn mọi người khổ, chỉ một mình mình sung sướng thì sao? Họ đâu có để yên cho mình, hết rình ngõ trước lại dòm ngõ sau. Chừng đó mình vui hay lo sợ? Cho nên chỉ khi nào tất cả mọi người đều được ấm no hạnh phúc thì mình mới an vui.

Trong kinh nói Bồ-tát thấy chúng sanh khổ như mình khổ, thấy chúng sanh vui như mình vui. Cái vui khổ của mọi người là cái vui khổ của chính mình, không tách rời nhau. Vì sao? Vì sự liên đới giữa mình với mọi người là mối tương duyên tương sanh không thể tách rời được. Thế nhưng ở thế gian nhiều người ích kỷ, muốn tách riêng một mình, không dính dáng với ai. Đó là quan niệm rất sai lầm, không hiểu biết gì về lý duyên sanh cả.

Phật dạy chúng ta làm cho tất cả người đều được an vui, tức là làm lành. Người đói cho họ cơm; người rách cho họ áo; người bệnh tật cho họ thuốc men v.v… Khi giúp đỡ người chính là lo cho mình. Bởi vì lo cho mình là mình gieo nhân tốt với mọi người nên mọi người quí mến. Gieo nhân tốt thì mai kia mất thân này mình được hưởng quả tốt. Như vậy có thiệt thòi gì đâu. Còn nếu ích kỷ, chỉ lo cho mình, không biết tới người, đó mới là thiệt thòi. Vì người ta không thương thì mình gặp khó khăn người ta không giúp đỡ. Chừng đó mình sẽ khổ. Mình có của, mọi người cùng có của; mình khỏe vui, mọi người cùng khỏe vui. Đó là chúng ta biết làm lành. Biết làm lành tức là biết thương người. Thương người tức là thương mình. Cho nên chúng ta phải cố gắng làm tất cả điều thiện.

Nhiều vị hay than thở: “Người có tiền của thì kêu gọi lòng từ thiện được, còn tôi nghèo cháy da làm sao làm từ thiện?” Đó là vì họ không hiểu. Trong nhà Phật dạy bố thí có ba: tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí cũng chia làm hai: nội tài và ngoại tài.

Nếu mình có tiền của, ai đói thiếu mình giúp, đó là bố thí ngoại tài. Nếu mình không có tiền của, thấy người hàng xóm bệnh, đi đứng không vững, mình đến đỡ đần, dẫn họ đi, đó là bố thí nội tài. Có tình thương, có lòng tốt thì trong trường hợp nào, hoàn cảnh nào, chúng ta cũng làm việc thiện được. Thiếu tình thương thì không làm việc lành, việc tốt được. Câu này Phật dạy chúng ta phải tận dụng khả năng của mình làm tất cả những điều lành.

Nói cụ thể hơn, làm các điều lành là chẳng những không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; mà còn cứu người cứu vật, bố thí giúp đỡ người nghèo thiếu, dạy người biết sống trinh bạch, nói lời chân thật, hòa nhã khuyên răn nhắc nhở mọi người, khuyên con cháu xóm làng tránh uống ruợu, hút xì ke ma túy… Đó là làm lành.

Trên đường tu mỗi ngày chúng ta mỗi bòn mót công đức. Bòn mót công đức là sao? Không phải tới chùa cúng dường mới có công đức. Giúp một người hàng xóm qua cơn hoạn nạn, là đã có công đức. Giúp một con vật bị hành hạ khổ sở, là đã có công đức. Công đức ở tất cả chỗ, tất cả mọi người. Hiểu như vậy chúng ta mới phát tâm làm lành một cách dễ dàng được.

Kế đến là bố thí pháp. Sao là bố thí pháp? Thí dụ như có người cờ bạc rượu chè làm cho gia đình nghèo túng, trước tiên chúng ta giúp tài vật cho họ qua cơn nghèo túng. Sau đó giải thích cho họ biết những tai hại của uống rượu và cờ bạc. Dạy thật rành rõ cho họ hiểu và bỏ, như vậy gọi là pháp thí.

Trong lúc đói khát người ta không thể nghe đạo lý được. Muốn họ nghe thì phải làm cho họ đỡ đói. Cho nên tài thí đi đầu rồi tới pháp thí theo sau. Có như vậy việc lành của chúng ta mới trọn. Nếu mỗi người trong xóm, thấy ai gặp khó khăn, khổ não sẵn sàng giúp đỡ, thì xóm làng đó tốt không? Nơi đó sẽ trở thành một nơi an vui, tự tại. Tất cả đều sống trong tình thương bảo bọc cho nhau thì tốt đẹp biết bao nhiêu. Vì vậy Phật dạy chúng ta phải cố gắng làm tất cả điều thiện.

Câu thứ ba “tự tịnh kỳ ý” nghĩa là giữ gìn tâm ý cho thanh tịnh. Câu này là câu then chốt. Quí vị mỗi người tự nhìn lại xem tâm ý mình có thanh tịnh chưa? Hay là như những con trốt bay quanh đám rơm, cuốn bụi tứ tung. Tâm chúng ta xáo động lăng xăng, không yên ổn nên gọi là ngầu đục. Vì tâm ngầu đục nên chúng ta không sáng suốt. Không sáng suốt thì làm sao tạo được điều tốt, điều lành. Vì vậy tất cả điều tốt lành đều do ý trong sạch phát ra. Ý nghĩ tốt, miệng nói tốt, thân làm tốt. Như vậy ý là gốc, là nền tảng của sự tu. Cho nên Phật nhắm thẳng vào gốc đó là phải gìn giữ tâm ý cho thanh tịnh.

Muốn tâm ý thanh tịnh phải làm sao? Như người tu Tịnh độ, muốn cho tâm ý thanh tịnh phải dùng câu niệm Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi luôn luôn niệm Phật. Niệm Phật không quên, để ý không chạy nhảy lung tung. Niệm Phật lâu ngày đã thuần thục rồi thì tâm không còn lăng xăng nữa. Tâm không còn lăng xăng nữa là ý được thanh tịnh. Cho nên muốn tâm ý thanh tịnh thì phải chuyên cần dùng một phương tiện nào đó để trừ dẹp những lăng xăng, lộn xộn trong tâm. Phương tiện đó gọi là pháp tu, hoặc pháp tu Tịnh độ, hoặc pháp tu Thiền.

Người tu Thiền làm sao để tâm ý thanh tịnh? Có nhiều cách, tùy theo trình độ sai biệt. Nếu tu thiền Nguyên thủy thì dùng pháp quán Tứ niệm xứ. Nếu tu thiền Đại thừa thì quán Giả, quán Không, quán Trung đạo v.v… Nhưng có một pháp tu tôi cho rằng đó là phương thuốc trị bá bệnh. Khi dấy niệm, chúng ta biết niệm đó là vọng tưởng hư dối, liền bỏ. Niệm khác dấy lên biết là hư dối vọng tưởng, bỏ. Phương pháp này như chuyện chăn trâu vậy. Con trâu vừa nghẻo đầu qua bên tây, mục đồng sợ ăn lúa mạ của người liền giựt lại. Nó nghẻo qua bên đông cũng giựt lại. Giữ cho con trâu đừng có ngả qua, ngả lại làm hư lúa của người. Cũng vậy, tâm vừa dấy niệm chạy theo cái này, chạy theo cái nọ, mình đều bỏ. Đó là vọng tưởng, không theo! Bỏ mãi cho đến khi nào vọng tưởng yên lặng, gọi là thanh tịnh. Đó là tu Thiền.

Tất cả mầm gốc của bất tịnh đều do tâm chạy theo cảnh, duyên dính với cảnh. Chúng ta buông, không chạy theo cảnh nữa thì tâm lặng. Tâm lặng tức là thanh tịnh. Phật dạy tu đến chỗ cuối cùng là phải trở về với tâm thanh tịnh ban đầu, không còn những ý niệm lăng xăng nữa. Bởi ý niệm lăng xăng đó không phải là tâm thật của mình, nó chỉ là bóng dáng của sáu trần mà thôi.

Tôi ví dụ như mặt biển thênh thang, khi nổi sóng thì mỗi lượn sóng khác nhau. Có lượn cao, có lượn thấp nhưng mặt biển vẫn không hai. Tâm chúng ta cũng vậy, những thứ lăng xăng đó chỉ là những lượn sóng, do tâm duyên theo bóng dáng sáu trần. Còn tâm thể chân thật lúc nào cũng tròn đầy, thanh tịnh. Cho nên tu, dừng được tâm lăng xăng đó thì thể thanh tịnh hiện tiền. Cũng như sóng nổi ầm ầm nhưng khi lặng rồi thì mặt biển thênh thang bằng phẳng.

Chúng ta nói những lượn sóng là mặt biển được không? Không, vì nó có giới hạn. Mặt biển thì phải thênh thang, nên sóng không là mặt biển. Tuy nhiên sóng không rời mặt biển mà có được. Nên biết sóng không phải là mặt biển, nhưng cũng không rời mặt biển. Tâm chúng ta cũng vậy, những nghĩ suy lăng xăng không rời tâm chân thật, nhưng tâm chân thật thì lặng yên, không giới hạn, còn suy nghĩ thì có chừng mực, có giới hạn. Cái suy nghĩ không phải là tâm thật thênh thang, nhưng cũng không rời tâm thênh thang đó. Hiểu như vậy mới thấy được cội nguồn của tâm thể chân thật.

Phật dạy tu là cứu kính thoát ly sanh tử. Còn suy nghĩ thì còn rơi theo hai đường: hoặc thiện hoặc ác tức là nghiệp lành, nghiệp dữ. Nghiệp lành, nghiệp dữ sẽ dẫn chúng ta sanh cõi lành, cõi dữ. Đó là đi trong sanh tử. Nếu cả hai lành dữ, thiện ác đều lặng hết, chỉ còn một tâm thanh tịnh thì chúng ta đi theo nghiệp nào? Đó là giải thoát sanh tử.

Như vậy thì muốn giải thoát sanh tử, chúng ta phải lặng hết tất cả tâm lành dữ. Tâm lành dữ là tâm tương đối, sanh diệt, không thật. Nó lặng xuống rồi thì tâm chân thật mới hiện bày. Tâm chân thật là tâm không sanh diệt. Sống được với tâm này mới gọi là giải thoát sanh tử. Cho nên Phật dạy phải lặng tâm ý cho trong sạch là vì thế. Cho nên tu theo Tịnh độ thì phải nhất tâm niệm Phật. Nhất tâm thì không còn hai, không còn phải quấy. Như vậy là tâm lặng. Còn nhà Thiền dạy dứt hết niệm tưởng lăng xăng, thì chân tâm hiển lộ. Chân tâm hiển lộ đó là nhân giải thoát sanh tử.

Câu cuối “Thị chư Phật giáo”, đây là lời dạy của tất cả chư Phật chớ không riêng gì đức Phật Thích-ca thôi. Chỉ một bài kệ này chúng ta khéo ứng dụng, tu đúng như vậy thì sẽ được giải thoát sanh tử. Nếu chưa giải thoát sanh tử, thì ít ra cũng tránh được các đường dữ, sanh trong các cõi lành. Cho nên bài kệ này thường được in trong lá phái qui y của Phật tử. Bài kệ nhắc cho quí Phật tử thấy đó là chân lý, là lẽ thật mà mười phương chư Phật đều đồng thừa nhận như vậy, chớ không riêng gì đức Phật Thích-ca.

Người tu Phật hiểu rõ và ứng dụng tu theo bài kệ đó, thì từ một con người lỗi lầm sẽ trở thành con người lương thiện. Rồi từ con người lương thiện tiến lên con người thanh tịnh, giải thoát sanh tử. Như vậy trên đường tu, thăng tiến dần từ thấp tới cao, cho đến giải thoát hẳn mọi khổ đau.

Tóm lại, chúng ta tu giai đoạn đầu là bỏ ác, làm thiện. Cuối cùng thiện ác đều dẹp luôn, chỉ còn một tâm thanh tịnh. Đó là chỗ cứu kính. Nếu quí vị nghe nhớ ứng dụng tu thì sẽ thấy giá trị của việc tu hành ngày càng thâm sâu, ngày càng an lạc. Mong rằng tất cả hãy nỗ lực tinh tấn tu hành, đến khi nào đạt được kết quả viên mãn mới thôi.