Thông
điệp của Ðức Thế Tôn là thông điệp vô song qua các thời đại. Con đường
Phật dẫn đến hạnh phúc sẽ chứng tỏ cho ta thấy rằng Phật Giáo không phải
bi quan tiêu cực như người ngoại đạo thường nói, mà là một tôn giáo đưa
đến phúc lạc tột đỉnh ngay tại đây và bây giờ.
Bằng cách nào
để chúng ta sống được hạnh phúc? Hãy làm điều thiện. Tránh mọi điều ác.
Tịnh hóa tâm thức. Ðó là lời dạy của chư Phật.
Nhờ nương
theo những bước đi chân lý mà người ta đạt được hạnh phúc vì trí tuệ đưa
đến hạnh phúc, si mê đưa đến bất hạnh. Làm điều thiện bạn sẽ hưởng phúc
lạc. Ðiều thiện là gì? Thực hành 5 học giới là làm điều thiện. Năm học
giớỉ cần phải được thọ trì bằng tinh thần cũng như bằng văn từ ngôn ngữ.
Văn tự sát mạng còn tinh thần cứu mạng. Ðối tượng của 5 học giới là gì?
Bố thí để diệt trừ tham, trì giới để diệt trừ sân, thiền định để diệt
trừ si.
Năm học giới phải được thực hành thận trọng qua
tâm ý, lời nói và hành động vì mọi sự việc đều do tâm. Tâm là kẻ tiên
phong, thủ trưởng và là kẻ sanh sự đủ chuyện. Hãy chánh niệm quán sát
tâm thì mọi sự đều tiến hành tốt đẹp. Nhưng quán tâm bằng cách nào? Phật
Giáo là phương pháp tu tập, điều phục tâm. Nếu chúng ta giữ yên lặng
chỉ theo dõi tâm, chúng ta sẽ làm cho tâm trong sạch, bảo đảm như ánh
mặt trời lên cao. Nhưng làm cách nào để tịnh hóa tâm được. Nếu trong khi
quán tâm mà một ý niệm hay vọng tưởng nào khởi lên đi kèm theo với
tham, sân, si thì bạn lập tức chuyển tâm sang hướng khác. Chẳng hạn tâm
từ bi thay cho tâm thù hận. Nếu ai chuyển tâm đến Ðức Phật, vị đó sẽ đạt
hiệu quả cấp kỳ bởi vì có sự hiện diện của đức Ðại từ bi thì không còn
một niệm tưởng tham, sân, si nào khởi lên được.
Nếu
phương pháp thứ nhất không thành công, bạn hãy thử phương pháp thứ hai.
Nghĩa là cố gắng tư duy về những mối nguy hại của những vọng tưởng, bởi
vì ý nghĩ về sân thường dẫn đến sát hại. Nếu bất cứ niệm sân nào khởi
lên, hãy diệt ngay từ trong trứng nước. Nếu phương pháp thứ hai không
đạt, bạn hãy làm theo phương pháp thứ ba.
Nghĩa là chúng
ta đừng nuôi dưỡng, ấp ủ vọng tưởng mà đơn giản lái ý tưởng sang hướng
khác không chú ý đến vọng tưởng, nó sẽ chết dần các mối duyên hợp.
Nếu
phương pháp thứ ba cũng thất bại, hãy thử phương pháp thứ tư, cố gắng
loại bỏ những điều đã tạo nên các vọng tưởng. Hãy tìm ra nguyên nhân rồi
nhổ tận gốc rễ.
Nếu phương pháp thứ tư vẫn không kết
quả, hãy thử phương pháp thứ năm. Ðây là hành động trực tiếp, tôi không
muốn nói hành động trực tiếp ở Ấn Ðộ bởi vì Ðức Phật không phải là thần
Jinnah mà là vị Thánh Jina– người chiến thắng dục vọng–người chinh phục
thế gian. Ngài tự chiến thắng mình chứ không phải là kẻ chiến thắng
người khác.
Nhưng hiển nhiên khi người nào tự chiến thắng
mình tức là vị đó muốn chinh phục người khác bằng chính tình thương vô
bờ bến. Ðức Thế Tôn sau khi tự chiến thắng mình tại Bồ Ðề Ðạo Tràng cách
đây 2500 năm đã trở thành ngọn đèn Á CHÂU và là ánh sáng thế giới. Bằng
phương pháp trực tiếp, nghĩa là bạn nghiến chặt răng, uốn lưỡi lên đốc
họng và tung toàn lực quét sạch vọng tưởng với sức mạnh của năng lực, ý
chí giống như nhà đô vật khổng lồ đưa vai vác chú lùn, nâng bổng lên cao
rồi ném chú ra khỏi dây, giống như bạn đang vật lộn với vọng tưởng của
chính mình, bằng toàn sức mạnh và năng lực ý chí, bạn sẽ quăng vọng
tưởng ra ngoài.
Một khi tâm đã được tịnh hóa rồi bằng một
trong 5 cách trên, lúc đó bạn mới hưởng được sự thuần tịnh trầm mặc và
an lạc. Ðồng thời các vọng tưởng đó không còn quấy phá bạn nữa. Nếu bạn
hành động theo phương pháp này mỗi lần vọng tưởng khởi lên, rồi thì tất
cả các vọng tưởng cũng trở nên yếu dần và sau cùng bị dập tắt hẳn. Giác
ngộ không gì khác ngoài tiến trình tịnh hóa tâm thức. Nhờ sử dụng phương
pháp này mà chúng ta đẩy lùi được những hắc ám trong tâm. Nhờ vậy mà
đạt được sự thuần khiết như gương sáng.
Tôi đã nói muốn
được hạnh phúc ta phải thực hành 5 học giới. Vào thời Phật có một vị Sư
đã thối tâm vì phải thực hành quá nhiều học giới, trong tam tạng Kinh có
227 giới điều khiến vị đó chán nản vì không thể giữ được, Sư muốn về
đời. Ðức Phật hỏi lý do thì vị ấy trả lời: “Bạch Ðức Thế Tôn, Ðạo giảo
này có quá nhiều học giới, con không kham giữ nổi. Con muốn quay về đời
sống thế tục”. Ðức Phật thương cảm, Ngài nói: “Con đừng thối tâm như
vậy, con có thể làm được một điều”'. Vị Sư hỏi: “Bạch Ðức Thế Tôn, điều
gì vậy?”. Ðức Phật dạy: “Con có thể quán sát tâm được không?”. “Thưa,
con làm được”, vị Sư trả lời. Ngài tiếp: “Vậy thì con đừng bận tâm về
Giới Luật quá nhiều, hãy quán sát tâm thôi, không còn gì nữa”. Nhờ vậy
vị Sư đó vào rừng và bắt đầu quán tâm. Ngày đêm quán sát tâm bằng phương
pháp này, bằng cách thức mà Ðức Phật đã khai thị. Nhờ vận dụng tất cả
phương pháp đã nêu trên để tịnh hóa tâm, chẳng bao lâu, vị Sư đó đắc quả
Alahán tối thượng, có nghĩa là vị đó đã chứng ngộ. Thế nên quý vị thử
vận dụng phương pháp trên, tôi chắc quý vị cũng sẽ được Giác Ngộ.
Muốn
được hạnh phúc, chúng ta phải tu tập 5 học giới, và thực sự nếu các
khoa học gia phương Tây có thể kết duyên 5 học giới vào khoa học của họ
thì thế giới này sẽ được hưởng niềm phúc lạc trường cửu. Nếu bom nguyên
tử có thể kết duyên được với 5 học giới thì bom nguyên tử không còn nguy
hiểm nữa. Con người sẽ thấy an lạc bởi vì không có quả bom nào trên vũ
trụ này hiệu nghiệm và mãnh liệt hơn quả bom tình thương của Ðức Phật.
Năm học giới là gì? Năm học giới được trình bày như sau:
* HỌC GIỚI THỨ NHẤT
(Không được sát hại và tàn bạo với các sinh vật)
Không
sát hại sinh mạng mọi sự sống dù là loài côn trùng nhỏ nhất. Tại sao
học giới sát sanh lại xếp hàng đầu. Bởi vì nơi nào có sự sống, nơi đó có
hy vọng. Khi một sinh vật bị chết, nó khó có thể khôi phục được sinh
mạng và nó đánh mất cơ hộì tiến lên cảnh giới phúc lạc hơn, vì lý do này
mà ta không giết hại vì lòng từ bi, và cũng đừng bảo giết. Giết hại là
điều hèn mạt độc ác nhất ngăn chặn đạo lộ hướng thượng.
Không
ai có quyền sát hại, nếu vị đó không thể khôi phục được mạng sống chúng
sanh hoặc thiết lập cho nó một tình trạng tốt đẹp hơn. Sát hại là hành
vi ăn cướp xấu xa nhất, vì sinh mạng là tài sản quý giá của bất cứ chúng
sanh nào. Khi một con vật đang hấp hối, nó chết với lòng căm giận, tâm
lực hướng về kẻ giết nó và quyết thề cướp lại mạng sống của bạn trong
kiếp sau. Vậy thì tại sao lại tạo thêm những kẻ thù không cần thiết như
vậy. Nếu tâm mình tràn đầy lòng từ bi thương cảm thì không ai có thể sát
hại được. Tại sao ta lại để cho tâm mình bị ô nhiễm bởi cơn giận dữ
điên cuồng làm giảm thọ đời mình. Tại sao ta là người sát nhân để mọi
người căm ghét. Tại sao ta không là một người đáng yêu để toàn thế giới
trân trọng quý kính. Sát hại rõ ràng làm tổn thương nhân cách, hủy diệt
lòng từ, làm hưng phấn thù hận, bành trướng cái TA ích kỷ, đưa đến khổ
đau, tiêu tan niềm an vui hạnh phúc.
Những ví dụ về giới sát hại sinh mạng: tội tử hình, tội treo cổ.v.v...
Trong
một tập sách nhan đề: “Tội tử hình”, tôi đã viết: "Thật là vô ích khi
treo cổ một thân xác vì thân xác này không bao giờ chịu trách nhiệm về
tội lỗi của mình. Vô minh–tức là sự ngu độn–mới chính là kẻ sát nhân
đích thực. Thế nên ta phải treo cổ gã Vô minh (thiếu trí tuệ) này mớì
đúng. Bằng cách nào đây? Bằng cách hãy ban cho tội nhân một tri kiến
Chân lý Phật Pháp.
Bất cứ ai cũng có thể đưa ra một giải pháp treo cổ Vô minh chứ?
Vô
minh chính là nhân tố của mọi tội ác. Các quan tòa đã lầm lẫn một cách
đáng sợ. Thay vì nhổ tận gốc tội lỗi, các vị tòa chỉ giản dị hủy diệt
cái khung xác trống rỗng này.
Có lần Thánh Gandhi đã nêu
rõ điều đó, vào một ngày nọ, khi có nhiều thanh niên ngoại đạo định hành
hung Ngài. Bạn có nhớ không, trên báo chí đã kể lại rằng Ngài xuất hiện
và nói với họ rằng: “Các cậu định làm gì? Ðiều duy nhất mà các cậu có
thể làm là cướp đi cái khung xác trống rỗng của ta. Nếu muốn vậy, hãy
lấy mạng ta đi, nhưng các cậu không bao giờ chiếm được linh hồn ta đâu”.
Ðó là lời dạy của Phật Ðạo. Vì vậy các quan tòa chỉ luôn luôn xử treo
cái khung xác trống rỗng mà nó không hề là một tội nhân chút nào.
Làm
sao để cho tội nhân đáng thương này huân tập trí tuệ? Bằng cách ban
phát trí tuệ (sự hiểu biết) cho tội nhân. Chúng ta cống hiến trí tuệ cho
tội nhân và chúng ta treo cổ tội nhân bằng cách ban cho anh ta trí tuệ.
Một khi Vô minh bị treo cổ, nó sẽ không sát hại nữa. Chúng ta sẽ không
treo cổ Vô minh như treo cái cổ đáng thương kia, nó vốn hoàn toàn vô
tội. Tôi chưa hề trông thấy cái cổ nào phạm tội cả. Ðiều đáng phải treo
là những hành động sai trái. Tôi có thể dẫn chứng cho bạn hàng trăm ví
dụ cụ thể để thấy thế giới bị điên đảo như thế nào và có người chỉ làm
những điều ác ra sao.
Có hai loại ung thư: ung thư về
thân xác và ung thư về tâm hồn. Nếu một người đau đớn vì ung thư thể
xác, vị đó chạy đến thầy thuốc và cố gắng tự chữa cho mình. Thật là quái
lạ khi một người đau khổ vì ung thư tâm hồn (ung thư nào nguy hiểm hơn
thể xác và tâm hồn ), vậy mà anh ta không bao giờ quan tâm để cứu chữa,
cũng không lo lắng để được chữa trị, anh ta không lo ngại gì về việc
chữa trị. Anh ta nghĩ rằng mình hoàn toàn bình thường. Vậy ung thư tâm
hồn là gì? Là vô minh ngu độn. Xin phép hỏi các bạn có bao nhiêu người
trong chúng ta đây đang đau khổ vì bị ung thư tâm hồn. Có phải tính sơ
sơ quá 99%, tất cả nhân loại đều bị ung thư tâm hồn.
Các
khoái lạc giác quan là thuốc độc. Ðó là món độc dược tinh thần. Vậy mà
mọi người đều ham thích. Họ đeo bám vào những thú vui của mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý. Dù nó là chất độc nhưng họ vẫn thích và tốn kém rất
nhiều tiền bạc cho độc dược này. Chẳng hạn có người mời bạn một cốc rượu
sâm banh màu sắc và mùi vị khá hấp dẫn, nhưng nó có chứa chất độc.
Người ngu độn cầm lấy uống hết và lăn ra chết. Còn người khôn ngoan thì
nói: “Không dám, xin bạn hãy giữ rượu của bạn, tôi không dùng được”. Tuy
nhiên, bạn vẫn tìm thấy hơn 99% dân chúng biết rằng trong rượu sâm banh
có độc tố, thế mà họ vẫn uống và trả tiền nhiều hơn nữa. Sự thỏa mãn
thị giác bảo rằng rượu sâm banh rất dịu ngọt và đáng yêu dù có chứa độc
tố.
Mọi người đều thích hưởng khoái lạc thị giác rồi sinh
mê đắm. Về mặt tâm linh, nếu họ chết thì chẳng có hại gì, vì vậy họ quả
là những người mất trí. Hôm qua, chúng ta đã tổ chức lễ Ðộc Lập. Ðó là
điều trọng đại không nghi ngờ gì nữa, nhưng thế còn sự độc lập bên trong
tâm hồn thì sao? Chúng ta đều là những kẻ nô lệ cho mắt, tai, mũi...
Một khi con người mà nội tâm được giải thoát như Ðức Phật, ai có thể nô
lệ Ngài? Không ai cả. Tại sao? Bởi vì Ngài đã đạt được sự tự do giải
thoát nội tâm. Và khi người nào được giải thoát bên trong tức là vị đó
đã an nhiên tự tại bên ngoài.
Chiến tranh là sự giết hại
trên bình diện qui mô. Không lọc nước có sinh vật mà uống đó là phạm
giới sát. Không cứu vớt sinh vật khi nó nằm trong tầm khả năng có thể
thực hiện cứu được, đó là phạm giới sát. Giả sử bạn trông thấy một ngườì
đang bị chết đuối, bạn biết lội nhưng không nhảy xuống cứu người. Như
vậy, bạn đã vi phạm luật Từ Bi, phạm giới sát, vì đó là sự vị kỷ. Hãy
yêu thương người hàng xóm như chính mình. Vì thương người như thương
thân nên bạn mới dám nhảy xuống cứu họ. Ðức Phật có lần đã nói: Hãy yêu
thương mọi loài như yêu thương huynh đệ mình; như bà mẹ hy sinh thân
mạng để bảo vệ đứa con duy nhất. Chính vì vậy mà chúng ta phải nuôi
dưỡng hạt giống tâm từ đối với chúng sinh. Quy luật tình thương vô song
này sẽ dẫn đến giải thoát.
Lại nữa, bất cứ điều gì xúc
phạm đến trí tuệ cũng là phạm đến giới sát. Không hề có đức tin nào về
linh hồn hiện hữu. Tư tưởng về cái Ta không nên đưa vào tu tập bởi vì
niệm tưởng về Ngã là báo hiệu Vô minh. Sự Vô ngã tối thắng là con đường
tu tập giới sát một cách toàn hảo.
Hãy nhớ năm học giới,
cần phải học hành chúng qua tư tưởng, lời nói và hành động. Bạn có thể
giết hại bằng tâm của mình nếu bạn tự mình nói: “Gã kia là kẻ thù của
ta, ước gì nó chết sớm cho rồi”, tức là bạn đã sát hại bằng tâm (tâm
sát) Bạn đã phạm học giới thứ nhất, về mặt tinh thần bạn có thể vi phạm
tất cả các giới khác bằng tâm mình. Vì vậy, việc thực hành tu tâm cũng
là đều hết sức quan trọng.
* HỌC GIỚI THỨ HAI.
(không được lấy của người khác).
Tránh
lấy vật gì không được cho. Trong Phật Giáo, chúng ta không bao giờ dùng
từ ăn cắp mà nói: lấy vật không cho. Bởi vì mọi thứ phải được đặt vào
tay chúng ta. Lại nữa chúng ta không thể nhận nó nếu món quà không được
đặt trực tiếp trong tay chúng ta. Chúng ta sinh nghi, không biết là vật
này có thực sự tặng cho mình không. Nhưng khi vật đó được đặt trong tay
ta thì ta không còn nghi ngờ gì nữa. Chúng ta biết đó là một tặng vật,
nghi vấn liền tan biến.
Những điển hình về học giới lấy
vật không cho: ví dụ như dùng cân đo gian dối, lấy lệ phí cao, nâng giá
hàng, trả lương thấp cho người giúp việc, phóng đại giá trị hàng hóa,
giả mạo, pha chế những hợp chất xấu hơn. Làm kém chất lượng sữa bằng
cách pha thêm nước và những chất khác vào. Sự cướp đoạt cũng là hình
thức ăn cướp trên bình diện rộng hơn.
Nếu có người lấy
cắp một ổ bánh mì cho đứa con đang đói, vị đó có thể bị giam tù ngay.
Nhưng nếu họ lấy cắp cả một quốc gia do tham quyền thì anh ta lại được
tung hô là người chinh phục thế giới. Thế giới như vậy quả là điên
khùng. Tôi nêu lên một ví dụ thứ hai: Khi bạn lấy cắp một ổ bánh mì, bạn
có biết tại sao quan tòa phạt bạn không. Ngài phạt bạn vì lấy cắp quá
ít. Ðiều mà quan tòa muốn nói là khi tòa đưa anh ta vào tù, Ngài có ý
muốn nhắn nhủ: “Bạn thân thương! Bạn quá nhỏ mọn, bạn phải bị phạt vì sự
nhỏ nhoi này; bởi chỉ ăn cắp bánh mì. Lần sau hãy đi ăn cắp một quốc
gia. Lúc đó bạn trở thành người anh hùng chiến thắng thế giới. Dân chúng
sẽ xây đài tưởng niệm, suy tôn bạn và bạn sẽ vinh quang đi vào lịch sử
đất nước. Bạn sẽ tiếp đón danh hiệu vĩ đại như Alexander, Ceasar,
Napoléon”. Những kẻ cướp tầm cỡ thế giới lịch sử trở nên vĩ đại vì họ
lấv cắp những cái trọng đại. Họ chẳng bao giờ bị bỏ tù, bởi vì họ to lớn
quá, không vào nhà tù được. Những tên cướp vĩ đại, quá vĩ đại, không
lọt vào nhà tù nhỏ bé được. Không có nhà tù nào được xây to rộng đủ cho
những tên cướp vĩ đại này và chính vì vậy mà họ được tự do, họ được tôn
kính, bái lạy bởi những kẻ ngu si vĩ đại. Ðương nhiên, họ vĩ đại cả hai
phương diện vì mỗi người đều là mẫu người đặc biệt theo khuynh hướng
riêng của mình.
* HỌC GIỚI THỨ BA
(Không được có những thèm khát nhục dục)
Tránh
tà dâm, dịch đầy đủ là: tôi chịu giữ giới, không phạm tà dâm. Trong
Phật Giáo, chúng ta chịu nhận, còn tôn giáo khác, học giới được răn dạy,
hay ban lệnh: bạn không được làm thế này hay không được làm thế kia.
Người nào đó áp bức bằng cây gậy to để ép buộc bạn phải giữ gìn một số
điều răn. Ðiều răn không hề được tìm thấy trong Phật Giáo. Ðức Phật cư
xử với chúng ta như những triết gia. Ngài chỉ cho ta con đường chân
chính (Chánh đạo). Bởi vì Ngài biết rằng chúng ta có trí tuệ, chúng ta
sẽ theo con đường của Ngài. Nếu chúng ta mê mờ, kém hiểu biết, đó là lỗi
của chúng ta. Ngài không sử dụng gậy to để ép buộc chúng ta giữ gìn năm
học giới. Vì lòng đại bi, Ðức Phật dạy. “Nếu bạn có trí tuệ, bạn không
thích đau khổ, sẽ được thoát khổ”. Nếu bạn yêu cuộc sống trong đau khổ,
bạn phải giải quyết cách nào?. Bạn có thể làm gì tùy bạn muốn. Trong đạo
Phật chúng ta được đối xử bằng tinh thần tôn trọng chứ không phải như
con nít, bắt phải thuần phục; chúng ta không bị bắt buộc, hay cưỡng ép.
Tôi không cố ý chê trách một tôn giáo nào, bởi vì Phật Giáo quá cao vời,
tôi chỉ tế nhị nêu lên một vài dị biệt, bởi vì cách hay nhất để chúng
ta có thể so sánh, đánh giá là đặt chiều cao của một vật khổng lồ gần
bên chú lùn nhỏ xíu, lúc đó, chúng ta mới nhận ra được sự khác biệt của
chúng. Chúng ta không khôn khéo dụ đạo bất cứ ai mà chỉ trình bày Chân
lý, sau khi phô diễn về sự thật. Công việc như vậy là xong, cho dù người
ta có chấp nhận hay bác bỏ, chúng ta hoàn toàn tự tại và công việc
truyền đạt Chân lý coi như đã kết thúc.
Ta nên bằng lòng
với chính người vợ của mình; cần loại trừ các tham ái trong mọi hình
thức. Nhìn một đối tượng nào đó với lòng thèm muốn coi như bạn đã phạm
Tà hạnh “dâm tâm”. Nếu toàn thế giới đều trở thành một đại tu viện thì
quả là thiên đường cho trần gian này.
Nếu mọi người nam
nữ vào rừng xuất gia tu tập thì trần gian này sẽ là thiên đường, toàn
thế giới đầy những cây cối. Chúng ta có nhiều rừng khắp nơi và khí hậu
vùng nhiệt đới sẽ tươi mát hơn. Nhưng vấn đề chặt đốn cây rừng thật bất
lợi, chúng ta tự làm tổn hại cho chính mình, bức khổ vì nóng. Sức nóng
như thiêu đốt của vùng nhiệt đới làm cho thế giới giống như sa mạc;
thiếu bóng cây che mát; dân chúng lại quá đông. Thế nên nếu người ta
chịu chấn chỉnh và điều phục tham vọng của mình, vào rừng xuất gia thì
toàn thế giới là một cảnh rừng Thiền an lạc. Dân chúng lại ít, vì đi tu,
ít sinh sản ... bạn hiểu chứ?
Các vị tại gia thân mến!
Bạn đang ăn cướp cây cối của chúng tôi, bởi vì cây cối đều thuộc về
những ai muốn tu Thiền định. Chặt đốn cây rừng nghĩa là các bạn đang
cướp đoạt cây che bóng mát của những ẩn sĩ mong muốn tu Thiền, nhập định
nơi đó.
Có lần khi tôi còn ở Ấn Ðộ, một anh chàng cùng
đứng với tôi tại nhà ga xe lữa Patve, anh ta nói: “Ông là người tu theo
phạm hạnh, Chúa sẽ giận ông đấy!”. Tôi hỏi: “Giận gì?”. Anh ta trả lời:
“Vì ông đã theo hạnh của Phạm Thiên”. Tôi nói: “Chúa của bạn mới kỳ lạ
chứ”. Anh ta lại nói: “Chúa ban cho sự sống, còn ông đang hủy diệt trần
gian”. Tôi hỏi lại: “Làm sao tôi có thể hủy diệt thế gian này được”. Ông
ta dõng dạt: “Vì ông không sinh sản chứ sao! Ông không sản xuất các
thanh thiếu niên chứ sao!”. Tôi tiếp lời: “Ôi Chúa của bạn quả là Vì
Trời đáng thương! lại cần đến sự trợ giúp của tôi mới duy trì được sự
sáng thế của Ngài, Chúa tạo nên thế gian này chứ có phải tôi đâu. Tại
sao tôi lạì bận tâm đến sự sáng thế. Ngài tạo ra thế gian này, hãy để
cho Ngài tiếp tục duy trì thế gian nếu Ngài muốn như vậy. Nếu Chúa muốn
tạo dựng thế gian thì chắc chắn Ngài phải có năng lực để duy trì nó chứ.
Nếu Ngài dừng lại không cần sự trợ giúp của tôi, thì tại sao tôi lại
phải chịu trách nhiệm? Nó không phải là thế giới của tôi, tại sao tôi
tạo ra nó”. Rồi sau đó, tôi hỏi thêm anh ta rằng: “Anh giải thích cách
nào bằng sự kiện thực tế rằng người không sáng thế lại được sùng kính
tôn thờ?”. Anh ta im lặng vì không thể trả lời.
Tham tạo tác!
Sân hủy diệt!
Si tạo tác và hủy diệt!
Ðức hạnh không tạo tác!
Từ bi không hủy diệt
Trí tuệ ban cho tự tại, không sinh, không diệt!
Bậc
Chân Thánh không hủy diệt. Ngài đơn giản từ chối lòng tham hay tạo tác.
Theo triết học Phật Giáo, bạn đang tạo tác thế giới này hàng triệu lần
trong mỗi khoảnh khắc. Nếu bạn dập tắt lòng tham thì thế giới của bạn
cũng không còn vì rằng đời sống là một tiến trình trôi chảy liên tục, nó
động chứ không tịnh. Ngày xưa thế giới này không phải được tạo nên
trong 6 ngày mà nó được tạo nên hàng triệu lần trorng mỗi khoảnh khắc.
Không có bắt đầu và kết thúc sáng tạo; mục tiêu duy nhất cho sáng tạo là
hủy diệt nguyên nhân. Cái gọi là Vô minh đã tận diệt thì sự sáng tạo
không còn, bởi vì Vô minh làm sinh khởi tham ái. Tham ái đưa đến chấp
thủ. Chấp thủ làm phát sinh hữu–cái đang trở thành. Hữu đưa đến sinh.
Sinh làm cho có già, bệnh, chết, buồn rầu, kêu ca, phiền não, đau khổ và
tuyệt vọng. Nếu vô minh và tham ái tận diệt thì toàn bộ tiến trình bị
bế tắt và do đó không còn sự sinh nữa. Vì vậy chính tham ái đã tạo tác;
còn đức hạnh thì tận diệt. Nhưng tham ái tạo tác điều xấu chứ không phải
điều tốt. Ðức hạnh hủy diệt điều xấu chứ không tiêu trừ điều
thiện. Tham ái tận diệt trần gian thống khổ này, chính nó chỉ là một
tiến trình trống rỗng. Trí tuệ diệt trừ si mê, phát sinh cái thực tại
cao siêu nhất của chân lý Vô thường. Nếu bạn ưa thích trần gian này thì
bạn buộc phải ghét bỏ Niết Bàn. Nếu bạn ưa thích Niết Bần thì bạn sẽ
chán ghét trần gian. Bạn không thể ghét bỏ cả hai. Nếu bạn muốn trần
gian thì bạn phải goodbye Niết Bàn. Nếu bạn muốn thực tại thì bạn phải
goodbye trần gian– thế giới không thực này. Vậy ai từ bi nhiều hơn?
Người tại gia hay xuất gia? Người xuất gia từ bỏ gì? Vị đó từ bỏ thế
giới trống rỗng–không mà có. Còn người tại gia từ bỏ gì? Anh ta từ bỏ
thực tại Niết Bàn để lấy cái không, vì trần gian trống rỗng này. Vậy ai
là người từ bỏ vĩ đại nhất? Người tại gia hay xuất gia? Người xuất gia
không từ bỏ gì, duy chỉ có trần gian trống rỗng này. Người xuất gia
không từ bỏ nhiều nhưng người tại gia thì từ bỏ Niết Bàn và là người từ
bỏ lớn lao nhất, thiệt thòi nhất.
* HỌC GIỚI THỨ TƯ
(Không đựơc nói sai, nói xâu, nói ác, nói phiếm)
Tránh
nói vọng ngữ, có bốn loại: nói láo, nói vu khống, nói thô bạo hay vô
lễ, nói chuyện phù phiếm, vô nghĩa, chuyện tầm phào, vô ích cần phải từ
bỏ. Tại sao bạn là người đa ngôn, nhiều chuyện? Bạn không nhận ra rằng
thế giới đang bốc lửa hay sao? Bạn vẫn còn ngồi tán gẫu chuyện trời mây
trong ngôi nhà đang cháy. Ða ngôn, đa sự là chứng bệnh của thời đại. Các
chủ biên báo chí đều là những người phóng đại to nhất. Sống một mình là
điều thuận lợi cho nhà tu. Yên tĩnh là cuộc sống tu học thiêng liêng
của tôi, không ai có thể lấy đi đươc. Tôi sẽ sống độc cư và tận hưởng
cái KHÔNG nơi hang động tâm hồn của mình.
Bạn hãy dùng
thức ăn bồi dưỡng tâm linh hằng ngày. Tại sao ta đói khát tinh thần. Nếu
bạn bị mất một bữa ăn, chấc chắn bạn sẽ la hét, quạu quọ đủ điều. Nhưng
khi ta mất nhiều bữa ăn tinh thần thì không thấy ai kêu ca gì cả. Hãy
bồi dưỡng thức ăn tinh thần cho tâm thức. Toàn thế giới đau khổ vì đói
khát thức ăn tinh thần. Món ăn tinh thần sẽ đưa đến an lạc cho thế giới.
Vậy món bồi dưỡng tinh thần là gì? Hãy giữ năm học giới. Chúng ta cần
thức ăn trong sạch cho tâm hồn. Chúng ta hãy tẩy chay các chủ hiệu sách
buôn bán các truyện giết người, tội phạm, tình dục, bởi vì họ đã dần dần
biến nhân loại thành thùng rác. Do đọc các đồ phế thải nhơ bẩn đó bạn
cũng bị ô nhiễm cùng khắp. Chúng ta nên đọc những bản kinh lợi lạc thù
thắng nhất và nhờ vậy được tịnh hóa chính mình, bởi vì kinh Phật linh
diệu có tác dụng như xà phòng tâm linh làm trong sạch bổn tâm chúng
ta.
* HỌC GIỚI THỨ NĂM.
(không được uống rượu hay những chất làm say)
Tránh
bất cứ trạng thái uể oải, suy nhược nào phát sinh do sử dụng các chất
say. Tôi đã lưu ý rằng giới điều này không có trong mười điều răn. Chúng
ta nên loại bỏ các thức uống có tính chất say sưa làm uể oải, ngủ
nhiều, kể cả cần sa, á phiện.
Uống rượu là tự phá vỡ toàn
phần các học giới. Vì dưới ảnh hưởng của rượu, một người say có thể
giết hại, lấy cắp, nói láo, tà dâm và càng uống nhiều hơn nữa.
Phật
Giáo là một phương pháp điều tâm hoàn hảo nhất. Trong Phật Giáo, tâm sở
hữu mọi thứ nên phải luôn luôn duy trì mức độ có hiệu năng cao nhất,
bởi vì chỉ có tâm tư duy trong sạch mới có đủ năng lực phát huy trí tuệ
để một ngày nào đó trí tuệ mới đẩy lùi được mọi si mê ám chướng và ban
cho ánh sáng Giác Ngộ. Vậy thì không phải hoàn toàn điên khùng sao khi
bạn làm mờ tâm trí, gây chết người do uống rượu, hậu quả là đốn phá con
đường thẳng tiến đến Niết Bàn của chúng ta. Ðây là năm học giới trong
Phật Giáo. Chỉ có năm chứ không phải mười. Theo học giới thứ nhất, chúng
ta không được phép giết hại ngay đến con vật nhỏ bé nhất. Và theo học
giới thứ năm, chúng ta không được phép uống rượu, cần sa, ma túy và các
chất say tương đương.
Những nhà truyền giáo từ phương Tây
có vẻ tốt lòng với người phương Ðông, họ đang đẩy hết tốc lực đưa hàng
triệu đô la để hóa đạo đám bất trung, tà giáo, ngoại đạo, chạy theo
đường lối tư duy của họ. Có thể họ cống hiến điều gì đó tốt đẹp hơn điều
chúng ta đã có rồi. Chúng ta có năm giới, khi các nam sinh là Phật tử,
họ không được phép sát hại hay uống rượu. Dù sao chúng ta cũng phải
ngưỡng mộ cái năng lực kinh khủng của các nhà truyền giáo Thiên Chúa để
rồi giờ đây chúng ta bị tiêm nhiễm với năng lực dụ đạo kinh hồn của họ.
Nay chúng tôi đang di chuyển về phương Tây để đáp lại lòng bao dung rộng
lượng đó. Vì cần phải có sự trao đổi văn hóa song chiều như vậy. Chỉ có
sự trao đổi chân tình này mới tạo sự hiểu biết thông cảm lẫn nhau hơn
giữa các quốc gia, đưa đến hòa bình, thiện chí khắp các nước trên trái
đất này. Và chính vì vậy mà chúng tôi sắp sang nước Mỹ. Singapore chỉ là
chặng đường tạm dừng. Ðó là chặng đường thứ ba. Chúng tôi đã đi Ragoon,
Penang, Kuala Lum pur và giờ đây là Sigapore, Manila, Hong Kong,
Honolulu và sau cùng là San-Francisco. Ðây là chuyến đi Hoằng pháp, cứ
ba ngày ở đây năm ngày ở kia. Chúng tôi sắp đến các bang dạy họ về năm
học giới để họ biết sống thương yêu cả loài vật với lòng từ bi vô lượng
vô biên. Thật là sai lầm nếu ai có tâm yêu thương con vật này mà ghét bỏ
con vật kia. Chúng ta phải vô tư tất cả, yêu thương bạn bè và kẻ thù
như nhau. Khi Ðức Phật được hỏi Ngài thương yêu ai nhất giữa Devadatta-
kẻ gây chia rẽ và Rahula con trai của Ngài. Ðức Phật trả lời Như Lai yêu
quý cả hai như nhau.
Tình yêu của người chồng đối với
người vợ vẫn là vị kỷ. Anh ta chẳng khác gì con ếch ngồi đáy giếng. Gia
đình là giếng của anh ta. Lẽ ra anh ta phải yêu thương và bảo vệ toàn
khắp thế giới bao la này, coi toàn thể vũ trụ này là một gia đình vĩ
đại. Vì vậy Ðức Phật đã dạy: “Thật khó mà tìm được một chúng sanh duy
nhất chưa từng là mẹ, cha, con trai, con gái mình trong những kiếp
qua”.
Trong Tương Ưng Bộ Kinh đức Thế Tôn dạy: “Ðệ tử
dòng cao quý phải quán tâm như vầy: ở đây ta đang yêu đời, không muốn
chết, ta thích lạc thú và không thích đau khổ. Giả sử có người nào đó
cướp lấy đời sống của ta (người ấy cũng thích sống như ta, không muốn
chết, thích mọi lạc thú và không thích khổ đau). Ðó không phải là điều
thú vị làm cho ta phấn khởi”.
Ðến lượt mình, nếu ta cướp
đoạt cuộc sống của người cũng thích sống và không muốn chết, người thích
lạc thú và không thích đau khổ, đó không phải là điều thú vị làm cho
anh ấy phấn khởi. Vì tình trạng như vậy không làm ta hài lòng hay phấn
khởi, đối với anh ấy cũng tương tự. Làm sao ta có thể gieo đau khổ như
thế cho người khác, nhờ thành quả của sự quán niệm như vậy, vị đó tự
tránh sát hại chúng sanh và khuyến khích người khác tránh sát hại. Ðồng
thời tán thán hành động không sát sanh. Ðược vậy coi như đã giữ được
tịnh giới về thân, vị đó hoàn toàn trong sạch. Ðệ tử giòng cao quý lại
quán niệm như vầy: nếu ai lấy cắp của ta hẳn điều đó không làm ta hài
lòng. Nếu ta lấy cắp của anh ấy, điều đó hẳn không làm anh ấy vui lòng.
Ðiều gì không làm cho ta hoan hỷ thì cũng sẽ không làm cho người khác
hoan hỷ. Hãy đặt mình vào vị trí giống như người khác, ta sẽ tránh được
tội lấy cắp. Do vậy vị đó trở nên hoàn toàn trong sạch (v.v... đối với
các học giới khác).
Tôi vừa nêu lên đạo lý rất sơ đẳng
của Phật Giáo (5 học giới). Người ta có thể phàn nàn: “Bộ Ngài Giảng Sư
tưởng chúng tôi là học trò mẫu giáo trong vườn trẻ chăng? Chúng tôi đang
ở Sigapore, người dân đa phần là trí thức muốn học hỏi triết lý cao
siêu. Ở Sigapore không cần đạo lý sơ cấp”. Thế nhưng những điều tôi nói
là căn bản, nếu khộng thực hành năm học giới thì làm sao quý vị có thể
nhận thức được trình độ cao cấp hơn. Hãy nhớ 99% chúng nhân đang ở lớp
sơ cấp Phật học; rất ít người đạt đến ở mức độ cao hơn, và còn ít hơn
nữa, người đã tốt nghiệp. Vì vậy đa số những bài học ở vườn trẻ họ đều
mãn nguyện với những gì có trong vườn trẻ.
Nhân đây chỉ
nêu lên cho quý vị một ý chính ngắn gọn về triết học Phật Giáo như tôi
đã đề cập trước kia. Trong Phật Giáo các sự vật đều coi như đang biến
động trôi chảy liên tục. Các triết gia Hy Lạp cũng nói mọi vật đều trôi
chảy. Khoa học cũng khẳng định tương tự và Ðức Phật cũng dạy như vậy,
Ngài nói các Pháp đều là một dòng biến động liên tục. Bạn có những
nguyên tử, điện tử và Proton có điều là Ðạo Phật không chấp nhận có linh
hồn. Ðời sống là tiến trình của sự liên tục trở thành. Chúng ta mỗi lúc
mỗi trở thành và chẳng bao giờ trở thành. Vậy thì ai là người trở
thành? Bậc Alahán đã trở thành. Trở thành gì? Trở thành một thực tại,
một trạng thái bất biến. Chúng ta không bao giờ trở thành mà vẫn đang
trở thành. Một khi tiến trình trở thành dừng lại, lúc đó ta mới trở
thành. Và ở đó không còn có sự đang trở thành nữa cho vị đó. Ðức Phật đã
trở thành một lần và xong tất cả. Ngài không bao giờ trở lại thế gian
này. Ngài có thể không bao giờ tiếp tục trở thành. Tiến trình trở thành
đã vĩnh viễn ngưng hắn. Ngài đã trở thành một hiện thực (bản chất có
thực) và sự thực có thể không bao giờ nhập lại thế gian nữa.
Bạn
phải nhận thức rằng Ðức Phật chỉ thị hiện khi nhân loại hân hoan tiếp
nhận thông điệp của Ngài. Không thể tiêu phí thời gian mà không được gì.
Ngài không định ném những hạt ngọc trai vào đàn heo. Ngài chỉ ném những
viên ngọc cho những ai trân trọng, đánh giá được nó. Ngài rất tiết kiệm
thời giờ. Thật là vô ích cho những ai giẫm đạt những viên ngọc đó dưới
chân mình. Ðức Phật sẽ trở lại, không phải vị Phật tương tự mà là Ðức
Phật Gautama, một vị Phật mới. Khi Ðức Phật xuất hiện cách đây 2500 năm,
Ấn Ðộ bấy giờ đã vào thời kỳ văn minh, tịnh lạc ở đỉnh cao. Nhớ rằng
cách đây 2500 năm toàn Ðông Phương tràn ngập trí thức. Ở Ấn Ðộ có Ðức
Phật Thích Ca, ở Trung quốc có Khổng Tử và Lão Tử, ở Hy Lạp có Platon và
Socrates và nhiều Thánh nhân khác. Ðó là thời kỳ trăm hoa đua nở. Vậy
thì tại sao Ðức Phật xuất hiện. Rõ ràng Ngài chỉ đến khi nhân gian xứng
đáng được sự hiện diện của Ngài, khi họ không đánh mất nhân tính của
mình. Trong Phật Giáo, chúng ta nói rằng Ðức Phật thị hiện khi nhân gian
có đủ duyên lành chân thiện và quốc độ này có đủ khả năng nhận thức
được hào quang chân lý của Ngài.
Quý vị phải nhớ rằng
gương mặt của tôi có thể là gương mặt của một người ngoạì quốc, có màu
da khác. Nhưng có lẽ tôi còn “Ấn Ðộ” hơn cả người Ấn Ðộ nữa. Ðể tặng quý
vị một ví dụ nhỏ: Ông A và bà B gì đó đang mặc y phục Tây Phương, y
phục của người Âu Châu. Tôi đang khoát y phục cổ Ấn Độ. Bạn là một người
Ðông Phương lại ăn mặc kiểu Tây phương. Tôi là người Tây phương lại ăn
mặc kiểu Ðông Phương. Vì vậy thế giới hình như ngược đảo cả, đủ minh họa
cho tính cách phức tạp, lộn xộn của trần gian. Xin quý vị đừng phật ý
vì đây chỉ là trò vui đùa trong câu chuyện. Vì có khôi hài mới làm sáng
lên cái triết lý sâu xa, lại nữa, hình như quý vị đang buồn ngủ.
Do
thành quả công đức vô lượng mà quý vị đã đạt được nhờ kham nhẫn lắng
nghe bài Pháp thật dài này. Nguyện cầu tất cả ước vọng cao đẹp của quý
vị được hoàn thành viên mãn. Nguyện cầu tất cả thính chúng sớm đạt được
Niết Bàn tối thượng.
Trích: ĐỨC PHẬT VÀ HÀO QUANG CHÂN LÝ Dịch giả: TT Thích Giải Thông-Phỏng dịch theo bản tiếng Anh The light of truth của Giảng sư LOKANATHA Do The Singapore Maha Bodhi School xuất bản
Nguồn bài viết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét