Một
thời đức Phật ở tại vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc, trong nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Phật
bảo với trưởng giả Thủ-ca, con của Đao-đề-da:
-
Này trưởng giả Thủ-ca! Ta sẽ nói cho ông nghe về các loại nghiệp báo thiện ác
sai khác. Ông hãy lắng nghe và khéo nhớ nghĩ.
-
Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe.
-
Tất cả chúng sanh bị lệ thuộc nơi nghiệp, nương vào nghiệp, tùy theo nghiệp của
mình mà lưu chuyển. Do nhân duyên đó mà có sự sai khác. Có nghiệp khiến chúng
sanh chết yểu, có nghiệp khiến chúng sanh sống lâu. Có nghiệp khiến chúng sanh
ít bệnh, hay nhiều bệnh, hoặc đẹp hoặc xấu; hoặc được quả báo có oai thế, sinh
trong dòng họ cao quí, hoặc sinh làm người, hoặc đọa địa ngục… hoặc sinh nơi xa
xôi hẻo lánh, hay sinh nơi trung tâm quốc gia. Hoặc có nghiệp khiến chúng sanh
nghèo mà ưa bố thí, hay giàu mà keo kiệt. Hoặc giàu thường bố thí mà nghèo lại
keo kiệt. Hoặc có nghiệp khiến chúng sanh thân được vui mà tâm khổ, hoặc tâm
vui mà thân khổ, hay thân tâm đều vui, hoặc thân tâm đều khổ… Đó là lược thuyết
về các loại nghiệp báo sai khác ở thế gian.
Này
Thủ-ca! Có 10 loại nghiệp khiến chúng sanh bị quả báo chết yểu: là tự mình sát
sanh; hay bảo người khác sát sanh; khen ngợi sự giết; thấy giết vui sướng; muốn
tiêu diệt người mình oán ghét; thấy người mình oán ghét bị tiêu diệt lòng vui
sướng; làm hư bào thai người khác; dạy người hủy hoại bào thai; xây dựng miếu
thờ trời để giết hại chúng sanh; dạy người đánh nhau để hai bên tàn hại.
Có
10 nghiệp khiến chúng sanh nhiều bệnh: là thích đánh đập chúng sanh; khuyên
người đánh; khen ngợi đánh, làm cha mẹ buồn; não loạn Thánh hiền, thấy người
mình oán bị bệnh trong lòng vui; họ hết bệnh trong lòng mình không vui…
Có
10 nghiệp khiến chúng sanh xinh đẹp, đoan chánh: là không sân; bố thí; thương
yêu cha mẹ; tôn trọng Hiền thánh; tu bổ, sơn phết tháp Phật; lau quét chùa;
quét dọn đất Tăng; lau quét tháp Phật; thấy người xấu không khinh khi; thấy
người đoan chánh biết rõ do nhân đời trước mà được.
Có
10 nghiệp khiến chúng sanh được quả báo sinh vào dòng họ cao quí: là biết kính
cha, mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, tôn trưởng, sư trưởng; thấy bậc sư trưởng cung kính
mời ngồi; nghe lời giáo huấn cha mẹ; tôn kính, thọ giáo bậc Hiền thánh; không
khinh kẻ thấp hèn.
Có
10 nghiệp khiến chúng sanh bị quả báo nghèo khổ: là tự mình trộm cắp; khuyên
người trộm cắp; khen ngợi trộm cắp; thấy trộm cắp vui theo; nương cha mẹ không
lo làm ăn; chiếm đoạt tài vật của Hiền thánh; thấy người khác có tài vật tâm
không vui; ngăn cản người khác được tài lợi; thấy người bố thí tâm không tùy
hỷ; thấy đời đói kém tâm không thương xót.
Lại
có 10 nghiệp khiến chúng sanh được quả báo thông minh: là khéo học hỏi với các
vị có trí tuệ; rao truyền pháp thiện; nghe và thọ trì chánh pháp; thấy người
nói pháp, khen “lành thay!”; ưa nói chánh pháp; thân cận người có trí; hộ trì
chánh pháp; siêng tu hạnh “nghe nhiều kinh pháp”; xa lìa tà kiến; thấy người
ngu si hung ác không khinh chê.
Lại
có 10 nghiệp khiến chúng sanh đọa địa ngục: là thân làm nghiệp ác nặng; miệng
nói lời ác nặng; ý nghĩ việc ác nặng; không tin nhân quả; chấp linh hồn bất
diệt; chủ trương không có nhân; tin không có nhân duyên tạo tác; không tin có
quả báo thiện ác; chấp một bên (không tin nhân quả, hoặc chấp linh hồn bất
diệt); không biết báo ân.
Lại
có 10 nghiệp khiến chúng sanh bị quả báo làm súc sanh: là thân làm nghiệp ác
bậc trung; miệng nói ác bậc trung; ý nghĩ ác bậc trung; từ phiền não tham, sân,
si khởi ác nghiệp; chửi mắng chúng sanh; làm đau khổ chúng sanh; cho vật bất
tịnh; hành tà dâm.
Lại
có 10 nghiệp khiến chúng sanh làm ngạ quỷ: là thân làm nghiệp ác nhẹ, miệng nói
nghiệp ác nhẹ, ý nghĩ nghiệp ác nhẹ; tâm ác; tham nhiều; ganh ghét; tà kiến;
quá tham luyến của cải cuộc sống mà mạng chung; đói mà chết, bị khô khát bức
bách mà chết.
Lại
có 10 nghiệp khiến chúng sanh bị quả báo A-tu-la: là thân làm nghiệp ác chút
ít, miệng nói nghiệp ác chút ít; ý nghĩ nghiệp ác chút ít; có tính cao ngạo;
cao ngạo chấp ngã; cao ngạo cho mình hơn người khác hay chưa chứng được quả vị
mà cho là chứng; tự cao tự đại; chẳng có đức hạnh gì mà khoe mình là có; người
ta hơn mình lại cho mình hơn người ta; đem các thiện căn hướng về Tu-la đạo.
Lại
có 10 nghiệp khiến chúng sanh được sanh ở cõi người: là không sát sanh, không
trộm cắp, không tà dâm, không nói láo, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi,
không nói lời ác, không tham, không sân, không tà kiến.
Lại
có chúng sanh bị quả báo sinh ở nơi xa xôi hẻo lánh, là do không cúng dường bố
thí cho Phật, Pháp, Tăng, người trì giới thanh tịnh.
Lại
có chúng sanh vừa đọa địa ngục liền được giải thoát là do bỏ điều ác, ân cần
sám hối, không tạo tội nữa, như vua A-xà-thế giết cha, v.v…
Đức
Phật liền nói kệ:
Nếu ai tạo tội nặng
Hết lòng tự trách mình
Sám hối không tạo nữa
Nhổ hết nghiệp căn bản.
Lại
có nghiệp ban đầu vui kết thúc khổ, là do tâm bố thí không kiên cố, sau hối
tiếc, nên sinh ở nhân gian trước giàu sau bị nghèo; đó gọi là ban đầu vui kết
thúc khổ.
Lại
có nghiệp ban đầu khổ kết thúc vui, là tuy miễn cưỡng bố thí nhưng bố thí rồi
thì vui vẻ không hối tiếc, nên sinh ra ban đầu nghèo sau giàu có, sung sướng;
đó gọi là ban đầu khổ kết thúc vui.
Lại
có nghiệp ban đầu sung sướng kết thúc cũng sung sướng, là có chúng sanh gặp
thiện tri thức được khuyên bố thí, hoan hỷ bố thí, kiên cố tu nghiệp bố thí,
nên sanh ra giàu có sung sướng, sau cũng giàu có sung sướng.
Lại
có nghiệp nghèo mà ưa bố thí, là có chúng sanh trước đã từng bố thí, nhưng
không gặp phước điền, vì không gặp phước điền nên quả báo rất ít. Do nhân đã bố
thí nên dù có bần cùng nhưng vẫn hay bố thí.
Lại có nghiệp giàu mà hay bố thí, là có chúng sanh gặp thiện tri thức, tu hạnh
bố thí nhiều, gặp được phước điền tốt, nên sinh ra được giàu có và có thể hành
bố thí.
Lại
có nghiệp nghèo mà tham lam keo kiệt, là có chúng sanh xa lìa thiện tri thức,
không ai khuyên bảo bố thí, do đó mà sinh ra bần cùng mà còn tham lam keo kiệt.
Lại
có nghiệp khiến chúng sanh thân an lạc nhưng tâm không an lạc, là người phàm
phu có phước.
Lại
có nghiệp khiến chúng sanh thân không an lạc nhưng tâm an lạc, là A-la-hán vô
phước.
Lại
có nghiệp khiến chúng sanh tâm và thân đều không an lạc, là người phàm phu vô
phước.
Lại
có nghiệp khiến chúng sanh cả thân tâm đều an lạc, là A-la-hán có phước.
v.v...
Đức Phật thuyết pháp xong, trưởng giả Thủ-ca được tín tâm thanh tịnh. Thủ-ca
cúi lạy Phật và thưa:
-
Con thỉnh nguyện Thế Tôn đến nhà trưởng giả Đao-đề, là cha của con ở thành
Xá-bà-đề (Xá-vệ), giúp cha con và tất cả chúng sanh mãi mãi được an lạc.
Đức
Phật vì lợi ích mọi người nên im lặng nhận lời.
Chú thích:
1.
A-tu-la (Asura), dịch là Phi thiên. Loài này tuy thần thông phước lực không
thua gì chư thiên nhưng không được thuần thiện nên gọi Phi thiên (không phải
cõi trời), được liệt vào hàng quỷ thần.
2.
Phước điền (Puṇya-kṣetra), thửa ruộng có năng lực sinh
ra phước đức. Vì kính thờ Phật, chúng Tăng, cha mẹ và xót thương cứu giúp những
người nghèo khổ, đau ốm thì được phước đức; giống người nông phu gieo trồng
trên mảnh ruộng thì được thu hoạch.
3.
Các vị A-la-hán tuy đã đoạn tận vô minh và ái dục (nguồn gốc của nghiệp), không
tạo nghiệp mới nhưng vẫn chịu những nhân đã gieo trong quá khứ, nên đức Phật
dạy: “Lại có nghiệp khiến chúng sanh thân không an lạc nhưng tâm an lạc, là
A-la-hán vô phước.” Như Tỳ-kheo Ưu-ba-tiên-na lúc ngồi thiền định bị rắn cắn,
chốc lát nọc độc lan khắp cơ thể, nhưng sắc diện của ông vẫn bình thường, vì
ông đã liễu ngộ lý vô ngã. Ông ung dung bình thản mà chết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét