(HT Thích Thanh Từ giảng)
Hồi xưa có Thiền sư Đạo Lâm ở Trung Quốc,
Ngài rất quyết tâm tu hành. Để đạt được kết quả như sở nguyện, Ngài dùng cây cột
thành chỗ ngồi như một ổ quạ, trên cháng ba của một cổ đại thụ. Ngài ngồi trên
đó tu. Đương thời người ta không biết tên Ngài là gì nên họ gọi là Ô Sào Thiền
sư. Ô là quạ, sào là ổ, Thiền sư ngồi tu trên ổ quạ. Do quyết tâm tu nên chẳng
bao lâu Ngài ngộ đạo. Từ đó, tiếng đồn vang khắp.
Khi ấy Bạch Cư Dị là một thi sĩ nổi tiếng và rất mến mộ
đạo Phật. Nghe Ngài là người được đắc đạo nên ông tìm tới. Dưới gốc cây, ông
nhìn lên chắp tay thưa: “Bạch Hòa thượng, cúi xin Ngài vì con nói pháp cương yếu,
để con theo đó mà tu.” Ngài liền đọc bài kệ, nguyên văn chữ Hán là:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Dịch:
Chớ làm các điều ác
Vâng làm các điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Đây lời chư Phật dạy.
Nghe bài kệ ấy xong ông cười, nói:
- Bạch Hòa thượng, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc,
Ngài dạy cho con làm gì!
Thiền sư nói:
- Phải, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc, nhưng
ông già tám mươi làm cũng chưa xong!
Bài kệ này thường được in trong lá phái qui y của quí Phật
tử đó. Chư Phật đã dạy như thế, chớ không phải chỉ một đức Phật thôi. Chúng ta
nên lưu tâm cho rõ. Tôi sẽ thứ tự giải thích bốn câu kệ này cho quí vị thấy tầm
vóc quan trọng của nó.
Chư ác mạc tác là không làm các điều ác. Điều ác là những điều
gì? Phật dạy tất cả người tu khi bước chân vào đạo, đều phải giữ giới. Nếu cư
sĩ thì giữ năm giới; người xuất gia thọ Sa-di giữ mười giới, Tỳ-kheo giữ hai
trăm năm mươi giới; Tỳ-kheo ni ba trăm bốn mươi tám giới… Như vậy bước đầu vào
đạo là phải giữ giới. Giữ giới là để ngăn ngừa không làm những điều tội lỗi.
Cho nên trong giới luật thường có câu phòng phi chỉ ác, tức là ngừa đón, ngăn dứt
tội ác. Người bước vào đạo, Phật bắt phải giữ giới để ngừa đón, chặn đứng không
cho làm những điều tội ác. Giới không cho chúng ta rơi vào hầm sâu, hố thẳm,
nên giới là hàng rào để ngừa đón sự nguy hiểm cho chúng ta. Người tu xuất gia
hay tại gia, đều phải có hàng rào để ngừa đón tội lỗi. Nếu không có hàng rào
đó, chúng ta dễ rơi vào những chỗ nguy hiểm, hậu quả không an vui mà còn dẫn đến
nhiều khổ đau khác nữa.
Tôi nói gần nhất là giới của cư sĩ tại gia. Phật không
cho sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, xì ke, ma túy… Phật cấm
không được làm những điều này. Nếu Phật tử làm thì sẽ dẫn đến đau khổ, tội lỗi.
Bước đầu vì sợ tội, sợ phạm nên quí vị không làm những điều đó, tức là không
làm điều ác.
Các hành động như giết người, trộm cắp, tà dâm, nói dối,
uống rượu say… có ác không? Năm điều đó là tội ác cho nên chúng ta ngừa đón,
không làm, không làm tức là giữ giới. Nhờ giữ giới nên tránh được tội ác. Tránh
được tội ác rồi, kế đó chúng ta mới làm các việc lành. Làm các việc lành như tu
Thập thiện, tức là mười điều lành của người tu Thiên thừa Phật giáo. Người tu
Thập thiện sau khi chết sẽ sanh về cõi trời. Trong mười điều lành đó thân có
ba, miệng có bốn, ý có ba điều.
Thân có ba là: “Không sát sanh, không trộm cắp, không tà
dâm”. Miệng có bốn là: “Không nói dối, không nói lời hung dữ, không nói lưỡi
đôi chiều, không nói lời thêu dệt”. Ý có ba là: “Bớt tham, bớt sân, bớt si”.
Người tu không làm mười điều ác đó sẽ được sanh về cõi lành. Như vậy bước đầu của
người tu Phật là phải ngăn chận dòng tội lỗi. Không gây tạo tội lỗi là bước thứ
nhất trên đường tu. Người theo đạo Phật mà không chịu giữ giới là người không
biết tu.
Trong mười điều đó: thân ba, miệng bốn, ý ba. Chúng ta
có thể giữ được thân, miệng nhưng ba điều của ý, quí Phật tử có giữ được không?
Thí dụ về tham, cái tham hết sức nhỏ như tham ăn. Bình thường thấy gà vịt nuôi
sẵn ở nhà cũng thương, nhưng khi đã thèm ăn rồi thì cứ đè xuống cắt cổ. Nó giãy
giụa mấy cũng mặc, đâu có xót xa chút nào, miễn được ăn ngon thôi. Vì miếng ăn
mà chúng ta tàn sát chúng sanh không thương tiếc!
Nên tôi nói người tu ăn chay có lợi rất lớn, dễ tăng trưởng
lòng từ bi. Thí dụ chư Tăng Ni ăn chay trường, khi ra đường có những hồ ao gần
bên, cá dưới ao nhảy lên bờ giãy giụa, quí vị thấy thế thì sao? Thấy thương, lượm
bỏ xuống hồ. Còn người không ăn chay trường, thấy thì sao? Thì mừng, lượm bỏ vô
giỏ. Như vậy có một việc thôi, mà người ăn chay trường thấy thương, còn người
ăn mặn thì thấy là món ăn ngon nên lượm bỏ vô giỏ.
Cái khổ sợ kinh hoàng của nó, mình không một chút xót
thương. Rõ ràng người tu ăn chay thì có lòng từ đối với chúng sanh hơn. Người
tu mà còn tham ăn ngon là còn sát phạt sanh vật khác, không biết thương tiếc mạng
sống của nó. Từ tham ăn rồi tới tham tiền, tham của.
Tham tiền, tham của thì sao? Thì ra đường thấy ai làm
rơi bóp lượm lên. Lượm được mừng quá giấu luôn. Như vậy do tham, dù không trực
tiếp ăn cắp, nhưng đã gián tiếp làm việc đó rồi. Người mất của họ buồn rầu,
mình lượm được thì mừng vui. Tức là vui trong sự đau khổ của người khác. Như vậy
có tội không?
Chúng ta thấy từ tham làm ra bao nhiêu tội ác. Sân cũng
vậy. Khi nào nổi nóng ít ai bình tĩnh, sáng suốt nói lời tốt lành. Người ta nói
trái ý, mình nổi giận liền kêu tên chửi mắng. Do giận dấy lên, chúng ta mất hết
trí khôn nên nói bậy, gây ra tội lỗi. Người tu phải bớt nóng giận. Chẳng riêng
gì giới Phật tử cư sĩ mà kể cả người xuất gia có hết được nóng giận chưa? Bình
thường quí vị sợ nhưng tới nổi cơn lên thì hết sợ! Để thấy khi nổi giận lên thì
trí tuệ sáng suốt bị khuất lấp đi, không còn nữa nên nói bậy, làm bậy.
Trong gia đình Phật tử cư sĩ, vợ chồng có tình ràng buộc
từ buổi đầu cho tới ngày nhắm mắt. Nhưng khi nổi giận thì bất kể, nói những lời
hết tình hết nghĩa, làm cho tan nát cả gia đình. Thế thì nóng giận có phải là tội
ác không? Nếu chúng ta bớt nóng giận thì bớt tội ác. Đó là một cái lẽ thật. Người
tu phải làm sao tự mình kềm chế. Ở đây tôi nói bớt thôi, chớ chưa dám nói hết.
Thí dụ trước kia quí vị nóng một trăm phần trăm, kể từ nay về sau, mỗi tháng bớt
xuống chừng mười phần trăm. Như vậy tới cuối năm sẽ hết hoàn toàn. Dứt được sân
thì mình bớt khổ và những người chung quanh cũng bớt khổ. Nóng giận làm cho người
ta mất hết lương tri, mất hết trí tuệ. Những việc không nên làm mà cứ làm là điều
hết sức nguy hiểm.
Thứ ba là si mê. Sao gọi là si mê? Nhiều vị khi bị người
ta nói “Chị khờ quá!” nổi giận liền. Nói “khờ” còn nhẹ, nói “ngu quá!” thì sao?
Nổi giận đùng đùng lên. Bởi cho rằng người ta nói ngu là xúc phạm đến giá trị của
mình, làm cho mình mất hết uy tín, danh dự… Nếu nghe nói ngu mà cứ cười: “Họ
nói mình ngu mà mình không ngu thì thôi”, như vậy khỏe biết mấy. Phải chi họ
nói ngu mà mình ngu liền thì nổi giận là đúng. Người ta nói ngu mà mình không
ngu thì thôi, có hệ trọng gì. Vậy mà không bao giờ chịu. Người xưa còn nói:
“Càng học thấy càng dốt”, đây là câu nói của hàng thánh nhân chớ không phải thường.
Học nhiều lẽ ra phải thông minh, sao “càng học càng thấy
dốt”? Bởi trên thế gian cả trăm cả triệu ngành nghề khác nhau. Thí dụ như chúng
ta học nghề bác sĩ y khoa, giỏi về bệnh trạng, biết thuốc trị cho bệnh nhân hết
bệnh, đó là bác sĩ hay. Nhưng nếu đưa ông bác sĩ qua ngành điện hoặc ngành hóa
chất hay các ngành tầm thường hơn như thợ hồ, thợ mộc thì ông có biết gì không?
Như vậy trăm ngàn nghề, mình biết có một nghề, còn bao nhiêu nghề không biết,
thì đâu gọi là khôn hoàn toàn. Mình biết có một phần trong muôn phần thì vẫn
còn ngu, chưa thể gọi là thấu suốt được hết.
Ngu mà biết ngu là chưa thật ngu. Ngu mà không biết ngu
đó mới thật là ngu! Khi nghe người ta nói mình ngu, mình cười thôi: “Trong trăm
nghìn muôn ức việc, tôi biết có một hai việc thôi bảo ngu là phải.” Nói như vậy
có thiệt thòi giá trị của mình không? Người bàng quan nghe thế, họ chê cười hay
là khen ngợi? Chúng ta có những thứ si mê hết sức là vô lý, không đáng si mê mà
cứ si mê. Từ si mê không chấp nhận mình ngu nên sanh ra sân. Từ sân gây tai họa
nguy hiểm thêm.
Trong kinh A-hàm, Phật có kể câu chuyện:
Có một thầy Tỳ-kheo tu hành rất chân chánh, ngài tránh
xa quần chúng, tu trong một khu rừng. Những tiều phu hái củi thấy thế, họ về
nói lại trong xóm nghe. Trong xóm, có một thiếu nữ rất tâm đạo, nghe vị Tỳ-kheo
tu chân chánh như thế, nên cô xin phép ba mẹ mỗi ngày bưng một bát cơm vào rừng
cúng dường cho thầy. Thấy thế, xóm làng nghi ngờ cô gái có tình ý với thầy. Họ
đồn bậy, cô buồn nên không dâng cơm nữa. Trước khi không dâng cơm, cô thưa với
thầy:
- Thưa Thầy, con đã phát tâm cúng dường cho Thầy, nhưng
bây giờ xóm làng đàm tiếu, nói con có ý riêng với Thầy, nên con không dám dâng
cơm cho Thầy nữa.
Nghe xong thầy Tỳ-kheo ấy buồn, vì nghĩ mình tu chân
chánh thế này, mà người ta đàm tiếu những chuyện không hay, thôi thì chết đi cho
rồi. Thầy mới làm một dây thòng lọng treo trên cây cổ thụ. Lúc thầy vừa đưa cổ
vào dây, có vị thần hiện ra hỏi:
- Tại sao Thầy lại tự tử?
Thầy trả lời:
- Tôi tu hành chân chánh mà bị người ta đồn có tình ý với
cô gái cúng dường cơm cho tôi. Vì vậy tôi xấu hổ, muốn tự tử chết cho rồi.
Vị thần đó hỏi:
- Thưa Thầy, nếu người ta đồn Thầy chứng quả A-la-hán,
lúc đó Thầy có thành A-la-hán không?
- Nếu tôi chưa chứng A-la-hán, mà bảo tôi chứng
A-la-hán, tôi cũng đâu thành A-la-hán được.
Vị thần hỏi:
- Vậy nếu người ta nói Thầy có tình ý xấu mà Thầy không
có, tại sao Thầy lại tự tử?
Nghe thế, thầy Tỳ-kheo mở thòng lọng xuống bỏ. Sau một
thời gian tinh cần, thầy chứng quả A-la-hán.
Câu chuyện đó nói với chúng ta điều gì? Dư luận khen chê
có thật hay không? Thí dụ quí vị tu chưa tới đâu, mà nghe nói “Thầy đã chứng
A-la-hán, Thầy đã là Bồ-tát rồi,” quí vị có mừng không? Lời khen mà không có lẽ
thật thì cũng vô giá trị. Ngược lại, nếu người ta nguyền rủa: “Thầy tu lôi thôi
quá coi chừng đọa địa ngục”, quí vị nổi giận không? Nếu mình tu thanh tịnh, người
ta nói đọa địa ngục, mình có đọa đâu mà sợ. Nên cứ cười thôi, đâu có gì phải nổi
nóng.
Trên thế gian người ta nói xấu, nói tốt đâu có giá trị
thật. Vậy mà ai hơi xúc phạm là mình nổi nóng lên, la hét om sòm. Đó là si mê rồi.
Nếu chúng ta không si mê thì cuộc sống có phải an lành không? Nên đạo Phật thường
dạy chúng ta phải tránh si mê. Bởi vì si mê là nhân đưa chúng ta đến đau khổ.
Nên bớt si mê là bớt khổ đau. Nếu còn si mê là còn đau khổ.
Muốn hết si mê chúng ta phải thường quán chiếu đúng với
lẽ thật. Vì vậy người tu Phật đi vào đạo bằng trí tuệ, chớ không phải bằng cầu
xin. Nhưng hiện nay chẳng những Phật tử, mà kể cả người tu cầu xin nhiều hơn vận
dụng trí tuệ.
Phật tử tới chùa dâng một dĩa quả rồi lạy, thầy hay cô
đánh chuông, bảo: “Phật tử nguyện gì thì cứ nguyện đi.” Thế là một đàng nhận, một
đàng xin, Phật tử cứ thế mà cầu: “Nguyện cho gia đình con được bình an, cho con
cái học giỏi, cho làm ăn phát tài…” Rõ ràng cúng Phật ít mà xin thì quá nhiều.
Như vậy có phải tham không? Phật dạy bớt tham, bớt sân, bớt si mà chúng sanh
tham như vậy, Phật biết làm sao? Chỉ còn lắc đầu.
Chúng ta tu mà không hiểu được lời Phật dạy, làm sao tu
theo Phật được. Đến chùa, nếu có cầu nguyện, người Phật tử hiểu đạo nên nguyện
thế này: “Nguyện Tam Bảo chứng minh hộ độ cho tất cả chúng sanh đều hết mê lầm,
hết đau khổ.” Như vậy là quá đủ. Bởi vì trong chúng sanh đã có mình rồi. Còn
xin cho một mình mình thì tham lam, ích kỷ quá, Phật đâu có vui. Nhiều khi tôi
cũng hơi buồn khi thấy Phật tử có ý trao đổi nhiều quá.
Thí dụ Phật tử cúng cho thầy hoặc cô, mỗi tháng năm ba
trăm gì đó. Một hôm có người nhà ấm đầu, bèn đến nhờ thầy cầu an giùm. Thầy bận
việc không đi tới nhà được thì buồn liền, thầy không thương mình. Như vậy cúng
để mong thầy bảo bọc cho gia đình. Bệnh, chết hay trong gia đình có chuyện gì,
nhất nhất thầy đều phải có mặt để cầu cúng. Như vậy cúng chùa giống như đóng tiền
bảo hiểm vậy. Cho nên từ sự hiểu lầm của Phật tử mà Tăng Ni trở thành khó xử. Bởi
khi nhận của cúng dường tức là thiếu nợ Phật tử. Phật tử yêu cầu mà không làm
theo thì Phật tử buồn, không đi chùa nữa. Cho nên chiều Phật tử, Tăng Ni đi cầu
cúng hoài, thành ra đánh mất ý nghĩa và giá trị thực của một tu sĩ.
Phật tử sáng suốt, hiểu và hành đúng đạo lý, thì Tăng Ni
dễ tu, dễ hóa duyên. Nói vậy không có nghĩa tôi qui lỗi về hết cho quí Phật tử.
Đôi lúc thầy cô cũng nhiệt tình quá, Phật tử chưa kịp mời mà quí vị đã hưởng ứng
trước rồi! “Nghe nói ông thân của cô bệnh nhiều, thôi để chiều nay thầy tới cầu
an cho.” Sốt sắng quá nên thành thói quen. Bây giờ chúng ta phải sửa lại. Làm
việc gì phải xét xem việc đó có hợp với chánh pháp, với đạo lý không. Không nên
làm những việc sai lầm, trái với những lời Phật dạy.
Chúng ta tu theo Phật là mở sáng trí tuệ. Trong kinh Phật
thường dạy si mê là tăm tối, trí tuệ là sáng suốt. Tuy si mê là nhân của tham
sân, nó khó trị, nhưng nếu biết trị thì dễ lắm. Như trong ngôi nhà tối lâu năm
không có người ở, bây giờ muốn cho hết tối, chỉ cần đốt lên một ngọn đèn, hay
đem một cây đuốc đến là ngôi nhà sáng liền.
Như vậy muốn hết tối, chỉ dùng ánh sáng. Ánh sáng mới
phá tan si mê, tăm tối. Trí tuệ cũng vậy, nó giúp chúng ta diệt được vô minh.
Như chúng ta hiểu sai lầm về việc cầu cúng, khi được nghe quí thầy giảng giải
liền nhận ra, sửa đổi ngay là chúng ta đã sáng rồi. Đâu phải đợi mười năm, hai
mươi năm mới sáng. Nghe, biết trước kia mình mê lầm, bây giờ bỏ mê lầm, bỏ chấp
trước là hết mê lầm. Hết mê lầm là trí tuệ, rất nhanh.
Nên Phật dạy chúng ta tu phải thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ.
Có đuốc trí tuệ rồi, chúng ta mới giải hết được những nỗi khổ đau. Bởi mê lầm
cho nên chúng ta đau khổ, nếu hết mê lầm thì hết đau khổ. Ví như người đi lạc
trong rừng, không biết lối ra. Lúc đó lao đao lận đận, tìm chỗ này chỗ kia nhọc
nhằn khổ sở mà vẫn không ra khỏi rừng. Đến khi gặp được người chỉ đường, nắm vững
lối đi rồi, cứ theo đó mà ra thì hết lạc lầm. Hết lạc lầm thì hết đau khổ. Nên
chỉ có trí tuệ, thấy rõ được lối đi mới hết đau khổ. Không có trí tuệ thì chúng
ta mãi khổ đau.
Tăng Ni cũng như Phật tử, không nên nghĩ dùng thật nhiều
công phu mới gọi là chuyên tu. Chúng ta mở sáng trí tuệ mới đúng là chuyên tu.
Phật dạy chúng ta bước từng bước, ngăn ngừa không cho rơi vào tội lỗi, đó là giữ
giới. Từ giữ giới, tiến lên loại trừ tham, sân, si để tâm được trong sạch, đó
là bắt đầu có trí tuệ. Như thế dần dần đi tới chỗ bình an.
Đó là câu thứ nhất “Chớ làm các điều ác”.
Đến câu thứ hai “Chúng thiện phụng hành”, tức là vâng
làm các điều lành. Nhiều người nghĩ rằng làm lành, làm phước thì tốn của tốn
công. Như vậy là thiệt thòi cho mình. Hiểu thế là sai lầm. Tôi dẫn câu chuyện của
người xưa kể lại:
Có anh chàng nghèo nọ ở trong một xóm toàn là người khá
giả. Khi ấy có người hỏi:
- Trong xóm toàn là người khá giả, một mình chú nghèo,
chú có buồn không?
Anh trả lời:
- Tôi tuy nghèo nhưng được ở trong một xóm khá giả, chẳng
những tôi không buồn mà còn vui nữa.
- Tại sao?
- Bởi vì tất cả mọi người đều khá, chỉ có mình tôi
nghèo. Khi thiếu thốn, tôi qua nhà này nhà kia mượn tiền, ai cũng giúp đỡ được
cả. Như vậy tuy nghèo mà không đến nỗi khổ, vì có người giúp tôi.
Như vậy người nghèo thấy người giàu khá trong lòng mừng
vui, không đố kỵ thì mọi người đều thương mến, nên họ sẵn sàng giúp đỡ những
lúc khó khăn. Còn nếu nghèo mà sanh tâm đố kỵ nói xiên nói xéo người ta, thì dĩ
nhiên họ oán ghét mình. Đã thế thì đâu ai thương và giúp đỡ nữa. Vậy mang tâm đố
kỵ là khôn hay dại? Nhưng con người mang cái bản ngã trầm trọng, thấy thua người
ta là đố kỵ, ganh ghét liền.
Chúng ta cứ nghĩ tài sản trong tay mới thật là của mình,
còn của người khác thì không dính dáng gì tới mình. Nhưng không phải như vậy.
Anh chàng nghèo mà cả làng đều thương, ai cũng sẵn sàng giúp đỡ thì anh cũng cảm
thấy hạnh phúc an vui. Còn người giàu mà tâm keo sẻn, ích kỷ, bo bo canh giữ sự
sản của mình, không ai thương hết thì khi gặp khổ vẫn cứ khổ như thường.
Ta cứ mong cho mọi người được sung sướng, còn phần mình
không quan trọng. Lo cho mọi người, mới nhìn thấy như thiệt thòi nhưng sự thật
lo cho người tức là lo cho mình. Tại sao? Bởi vì trong xã hội, cuộc sống luôn
liên đới nhau giữa mình và mọi người, không thể tách rời được. Nếu mọi người được
vui, được no ấm thì mình mới yên vui. Còn mọi người khổ, chỉ một mình mình sung
sướng thì sao? Họ đâu có để yên cho mình, hết rình ngõ trước lại dòm ngõ sau.
Chừng đó mình vui hay lo sợ? Cho nên chỉ khi nào tất cả mọi người đều được ấm
no hạnh phúc thì mình mới an vui.
Trong kinh nói Bồ-tát thấy chúng sanh khổ như mình khổ,
thấy chúng sanh vui như mình vui. Cái vui khổ của mọi người là cái vui khổ của
chính mình, không tách rời nhau. Vì sao? Vì sự liên đới giữa mình với mọi người
là mối tương duyên tương sanh không thể tách rời được. Thế nhưng ở thế gian nhiều
người ích kỷ, muốn tách riêng một mình, không dính dáng với ai. Đó là quan niệm
rất sai lầm, không hiểu biết gì về lý duyên sanh cả.
Phật dạy chúng ta làm cho tất cả người đều được an vui,
tức là làm lành. Người đói cho họ cơm; người rách cho họ áo; người bệnh tật cho
họ thuốc men v.v… Khi giúp đỡ người chính là lo cho mình. Bởi vì lo cho mình là
mình gieo nhân tốt với mọi người nên mọi người quí mến. Gieo nhân tốt thì mai
kia mất thân này mình được hưởng quả tốt. Như vậy có thiệt thòi gì đâu. Còn nếu
ích kỷ, chỉ lo cho mình, không biết tới người, đó mới là thiệt thòi. Vì người
ta không thương thì mình gặp khó khăn người ta không giúp đỡ. Chừng đó mình sẽ
khổ. Mình có của, mọi người cùng có của; mình khỏe vui, mọi người cùng khỏe
vui. Đó là chúng ta biết làm lành. Biết làm lành tức là biết thương người.
Thương người tức là thương mình. Cho nên chúng ta phải cố gắng làm tất cả điều
thiện.
Nhiều vị hay than thở: “Người có tiền của thì kêu gọi
lòng từ thiện được, còn tôi nghèo cháy da làm sao làm từ thiện?” Đó là vì họ
không hiểu. Trong nhà Phật dạy bố thí có ba: tài thí, pháp thí và vô úy thí.
Tài thí cũng chia làm hai: nội tài và ngoại tài.
Nếu mình có tiền của, ai đói thiếu mình giúp, đó là bố
thí ngoại tài. Nếu mình không có tiền của, thấy người hàng xóm bệnh, đi đứng
không vững, mình đến đỡ đần, dẫn họ đi, đó là bố thí nội tài. Có tình thương,
có lòng tốt thì trong trường hợp nào, hoàn cảnh nào, chúng ta cũng làm việc thiện
được. Thiếu tình thương thì không làm việc lành, việc tốt được. Câu này Phật dạy
chúng ta phải tận dụng khả năng của mình làm tất cả những điều lành.
Nói cụ thể hơn, làm các điều lành là chẳng những không
sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu; mà còn
cứu người cứu vật, bố thí giúp đỡ người nghèo thiếu, dạy người biết sống trinh
bạch, nói lời chân thật, hòa nhã khuyên răn nhắc nhở mọi người, khuyên con cháu
xóm làng tránh uống ruợu, hút xì ke ma túy… Đó là làm lành.
Trên đường tu mỗi ngày chúng ta mỗi bòn mót công đức.
Bòn mót công đức là sao? Không phải tới chùa cúng dường mới có công đức. Giúp một
người hàng xóm qua cơn hoạn nạn, là đã có công đức. Giúp một con vật bị hành hạ
khổ sở, là đã có công đức. Công đức ở tất cả chỗ, tất cả mọi người. Hiểu như vậy
chúng ta mới phát tâm làm lành một cách dễ dàng được.
Kế đến là bố thí pháp. Sao là bố thí pháp? Thí dụ như có
người cờ bạc rượu chè làm cho gia đình nghèo túng, trước tiên chúng ta giúp tài
vật cho họ qua cơn nghèo túng. Sau đó giải thích cho họ biết những tai hại của
uống rượu và cờ bạc. Dạy thật rành rõ cho họ hiểu và bỏ, như vậy gọi là pháp
thí.
Trong lúc đói khát người ta không thể nghe đạo lý được.
Muốn họ nghe thì phải làm cho họ đỡ đói. Cho nên tài thí đi đầu rồi tới pháp
thí theo sau. Có như vậy việc lành của chúng ta mới trọn. Nếu mỗi người trong
xóm, thấy ai gặp khó khăn, khổ não sẵn sàng giúp đỡ, thì xóm làng đó tốt không?
Nơi đó sẽ trở thành một nơi an vui, tự tại. Tất cả đều sống trong tình thương bảo
bọc cho nhau thì tốt đẹp biết bao nhiêu. Vì vậy Phật dạy chúng ta phải cố gắng
làm tất cả điều thiện.
Câu thứ ba “tự tịnh kỳ ý” nghĩa là giữ gìn tâm ý cho
thanh tịnh. Câu này là câu then chốt. Quí vị mỗi người tự nhìn lại xem tâm ý
mình có thanh tịnh chưa? Hay là như những con trốt bay quanh đám rơm, cuốn bụi
tứ tung. Tâm chúng ta xáo động lăng xăng, không yên ổn nên gọi là ngầu đục. Vì
tâm ngầu đục nên chúng ta không sáng suốt. Không sáng suốt thì làm sao tạo được
điều tốt, điều lành. Vì vậy tất cả điều tốt lành đều do ý trong sạch phát ra. Ý
nghĩ tốt, miệng nói tốt, thân làm tốt. Như vậy ý là gốc, là nền tảng của sự tu.
Cho nên Phật nhắm thẳng vào gốc đó là phải gìn giữ tâm ý cho thanh tịnh.
Muốn tâm ý thanh tịnh phải làm sao? Như người tu Tịnh độ,
muốn cho tâm ý thanh tịnh phải dùng câu niệm Phật. Đi, đứng, nằm, ngồi luôn
luôn niệm Phật. Niệm Phật không quên, để ý không chạy nhảy lung tung. Niệm Phật
lâu ngày đã thuần thục rồi thì tâm không còn lăng xăng nữa. Tâm không còn lăng
xăng nữa là ý được thanh tịnh. Cho nên muốn tâm ý thanh tịnh thì phải chuyên cần
dùng một phương tiện nào đó để trừ dẹp những lăng xăng, lộn xộn trong tâm.
Phương tiện đó gọi là pháp tu, hoặc pháp tu Tịnh độ, hoặc pháp tu Thiền.
Người tu Thiền làm sao để tâm ý thanh tịnh? Có nhiều
cách, tùy theo trình độ sai biệt. Nếu tu thiền Nguyên thủy thì dùng pháp quán Tứ
niệm xứ. Nếu tu thiền Đại thừa thì quán Giả, quán Không, quán Trung đạo v.v…
Nhưng có một pháp tu tôi cho rằng đó là phương thuốc trị bá bệnh. Khi dấy niệm,
chúng ta biết niệm đó là vọng tưởng hư dối, liền bỏ. Niệm khác dấy lên biết là
hư dối vọng tưởng, bỏ. Phương pháp này như chuyện chăn trâu vậy. Con trâu vừa
nghẻo đầu qua bên tây, mục đồng sợ ăn lúa mạ của người liền giựt lại. Nó nghẻo
qua bên đông cũng giựt lại. Giữ cho con trâu đừng có ngả qua, ngả lại làm hư
lúa của người. Cũng vậy, tâm vừa dấy niệm chạy theo cái này, chạy theo cái nọ,
mình đều bỏ. Đó là vọng tưởng, không theo! Bỏ mãi cho đến khi nào vọng tưởng
yên lặng, gọi là thanh tịnh. Đó là tu Thiền.
Tất cả mầm gốc của bất tịnh đều do tâm chạy theo cảnh,
duyên dính với cảnh. Chúng ta buông, không chạy theo cảnh nữa thì tâm lặng. Tâm
lặng tức là thanh tịnh. Phật dạy tu đến chỗ cuối cùng là phải trở về với tâm
thanh tịnh ban đầu, không còn những ý niệm lăng xăng nữa. Bởi ý niệm lăng xăng
đó không phải là tâm thật của mình, nó chỉ là bóng dáng của sáu trần mà thôi.
Tôi ví dụ như mặt biển thênh thang, khi nổi sóng thì mỗi
lượn sóng khác nhau. Có lượn cao, có lượn thấp nhưng mặt biển vẫn không hai.
Tâm chúng ta cũng vậy, những thứ lăng xăng đó chỉ là những lượn sóng, do tâm
duyên theo bóng dáng sáu trần. Còn tâm thể chân thật lúc nào cũng tròn đầy,
thanh tịnh. Cho nên tu, dừng được tâm lăng xăng đó thì thể thanh tịnh hiện tiền.
Cũng như sóng nổi ầm ầm nhưng khi lặng rồi thì mặt biển thênh thang bằng phẳng.
Chúng ta nói những lượn sóng là mặt biển được không?
Không, vì nó có giới hạn. Mặt biển thì phải thênh thang, nên sóng không là mặt
biển. Tuy nhiên sóng không rời mặt biển mà có được. Nên biết sóng không phải là
mặt biển, nhưng cũng không rời mặt biển. Tâm chúng ta cũng vậy, những nghĩ suy
lăng xăng không rời tâm chân thật, nhưng tâm chân thật thì lặng yên, không giới
hạn, còn suy nghĩ thì có chừng mực, có giới hạn. Cái suy nghĩ không phải là tâm
thật thênh thang, nhưng cũng không rời tâm thênh thang đó. Hiểu như vậy mới thấy
được cội nguồn của tâm thể chân thật.
Phật dạy tu là cứu kính thoát ly sanh tử. Còn suy nghĩ
thì còn rơi theo hai đường: hoặc thiện hoặc ác tức là nghiệp lành, nghiệp dữ.
Nghiệp lành, nghiệp dữ sẽ dẫn chúng ta sanh cõi lành, cõi dữ. Đó là đi trong
sanh tử. Nếu cả hai lành dữ, thiện ác đều lặng hết, chỉ còn một tâm thanh tịnh
thì chúng ta đi theo nghiệp nào? Đó là giải thoát sanh tử.
Như vậy thì muốn giải thoát sanh tử, chúng ta phải lặng
hết tất cả tâm lành dữ. Tâm lành dữ là tâm tương đối, sanh diệt, không thật. Nó
lặng xuống rồi thì tâm chân thật mới hiện bày. Tâm chân thật là tâm không sanh
diệt. Sống được với tâm này mới gọi là giải thoát sanh tử. Cho nên Phật dạy phải
lặng tâm ý cho trong sạch là vì thế. Cho nên tu theo Tịnh độ thì phải nhất tâm
niệm Phật. Nhất tâm thì không còn hai, không còn phải quấy. Như vậy là tâm lặng.
Còn nhà Thiền dạy dứt hết niệm tưởng lăng xăng, thì chân tâm hiển lộ. Chân tâm
hiển lộ đó là nhân giải thoát sanh tử.
Câu cuối “Thị chư Phật giáo”, đây là lời dạy của tất cả
chư Phật chớ không riêng gì đức Phật Thích-ca thôi. Chỉ một bài kệ này chúng ta
khéo ứng dụng, tu đúng như vậy thì sẽ được giải thoát sanh tử. Nếu chưa giải
thoát sanh tử, thì ít ra cũng tránh được các đường dữ, sanh trong các cõi lành.
Cho nên bài kệ này thường được in trong lá phái qui y của Phật tử. Bài kệ nhắc
cho quí Phật tử thấy đó là chân lý, là lẽ thật mà mười phương chư Phật đều đồng
thừa nhận như vậy, chớ không riêng gì đức Phật Thích-ca.
Người tu Phật hiểu rõ và ứng dụng tu theo bài kệ đó, thì
từ một con người lỗi lầm sẽ trở thành con người lương thiện. Rồi từ con người
lương thiện tiến lên con người thanh tịnh, giải thoát sanh tử. Như vậy trên đường
tu, thăng tiến dần từ thấp tới cao, cho đến giải thoát hẳn mọi khổ đau.
Tóm lại, chúng ta tu giai đoạn đầu là bỏ ác, làm thiện.
Cuối cùng thiện ác đều dẹp luôn, chỉ còn một tâm thanh tịnh. Đó là chỗ cứu
kính. Nếu quí vị nghe nhớ ứng dụng tu thì sẽ thấy giá trị của việc tu hành ngày
càng thâm sâu, ngày càng an lạc. Mong rằng tất cả hãy nỗ lực tinh tấn tu hành,
đến khi nào đạt được kết quả viên mãn mới thôi. —
Giải thoát!
Trả lờiXóaHuu ich va rat hay.
Trả lờiXóaChuc em vui khoe va nhieu may man.