Bài viết này do tôi chôm từ blog của người khác. Chép và dán vào thôi chứ tôi vẫn chưa đọc bởi vì tôi đâu có sợ chết.
Có nhiều sách viết về sự chết lắm; mọi người cố tìm đọc nhé, vào google tìm ebook cũng có nữa (Vd:
Hành trình về phương Đông)! Hy vọng lúc sắp chết, ai cũng nói được câu: "May quá, tôi sắp chết rồi!" Hoặc "Sướng quá! Sắp được chết rồi!"
LUẬN VỀ SỐNG VÀ CHẾT
Nhà văn Đắc Trung
“Kiếp người chỉ sống một lần và
chết một lần.
Phải sống sao cho có nghĩa và chết sao cho có nghĩa."
PLATON
(Triết gia Hy Lạp cổ đại)
Trước khi luận về
“sống” và “chết”, ta hãy cùng tìm hiểu về Tâm và Xác, về Chuyển Kiếp Luân Hồi
dưới sự chi phối của Nhân Quả thuộc phạm trù Tâm Linh và thế giới quan Đạo
Phật.
Tâm Linh
Không phải bây giờ
người ta mới nghiên cứu, mà ngay từ 400 năm trước công nguyên, nhà triết học Hy
Lạp vĩ đại Pla-ton (427-347 TCN) đã dành nhiều thời gian và tâm huyết cho lĩnh
vực này. Hướng nghiên cứu của ông chủ yếu là phần hồn của sự vật, xem cơ thể
như là nơi cư trú tạm thời của tâm linh. Ông trình bày khá kỹ những tư duy về
số phận con người sau khi chết. Nhiều cuốn sách ông mô tả và bàn luận về việc
khi tâm linh tách khỏi thân xác đi vào thế giới âm gian ra sao, tồn tại với các
tâm linh khác thế nào trước khi đầu thai trở lại ...
Sau Pla-ton nhiều nhà
khoa học tên tuổi thuộc các lĩnh vực triết học, tâm lý, sinh học, nhân chủng,
thiên văn, vật lý, y học ... trên thế giới như Willam Krook (Anh), Stephenson
(Mỹ), Ni Akbrem (Thụy Điển), Kar Yager (Thụy Sĩ), Tomilai Tomokichi (Nhật Bản),
Caming Franmario (Pháp)... đã chuyển hướng nghiên cứu sang lĩnh vực tâm linh.
Nhiều quốc gia lớn thành lập hiệp hội hoặc viện nghiên cứu tâm linh từ những
năm đầu thế kỷ 19 như Anh, Mỹ, Nhật... (“Hiệp hội Nghiên cứu Tâm linh” của Anh
có ba nhà bác học được giải thưởng Nobel thay nhau làm Chủ tịch, nhiều hội viên
là viện sỹ Viện Hàn lâm Hoàng gia, có người làm Thủ tướng còn lại hầu hết là giáo
sư đại học). Không ít báo cáo khoa học nhận định rằng bộ não con người mới chỉ
vận dụng được 10% khả năng làm việc, 90% còn lại “đang ngủ”. Mục đích nghiên
cứu tâm linh là nhằm phát hiện và triệt để sử dụng siêu năng lực tiềm tàng của
con người. Vì thế đến nay tâm linh đã trở thành lĩnh vực được nhiều nước, nhiều
nhà khoa học đầu tư nghiên cứu.
Đạo Phật
Là tôn giáo tin vào trí
tuệ, không mê tín huyền hoặc mà tìm hiểu và giải đáp về vũ trụ, về vạn vật và
gần gũi cuộc sống con người. Ngay chùa chiền cũng không đồ sộ, uy nghi, cách
biệt mà thư tĩnh, ẩn mình dưới những tán cây xanh tốt hoà đồng với xóm quê thôn
dã. Đạo Phật là học thuyết mang tính nhân sinh và nhân ái cao cả. Đạo Phật có
nhiều sự thống nhất với khoa học hiện đại. Đạo Phật tôn trọng sự hoài nghi để
thúc đẩy phát triển. Đạo Phật chủ trương chân lý không có ranh giới và bản thân
nó không phụ thuộc vào bất cứ một tôn giáo, một thế lực, hoặc cá nhân nào trong
lịch sử. Đạo Phật cho rằng mọi giáo lý đã tồn tại hàng nghìn năm đều có ích,
nếu không nó đã bị trí tuệ của loài người đào thải. Đặc biệt so với các tôn
giáo khác Đạo Phật đề cập nhiều nhất, lý giải toàn diện, đầy đủ và sâu sắc nhất
về “sống” và “chết” của con người.
Vậy Tâm Linh và Đạo
Phật quan niệm thế nào về...
Tâm và Xác:
Khi sống trên dương
gian con người có hai phần: tâm hồn và thân xác. Tâm thuộc bản chất: thiện-ác,
tốt-xấu... có tác dụng thuyết phục, khẳng định, đánh giá. Hồn thuộc hình thức:
gây sự chú ý, hấp dẫn, lôi cuốn. Tâm hồn nào gắn với thân xác ấy, định hình nên
mỗi cá nhân. Tuy nhiên tâm hồn vẫn có thể tồn tại ngoài thân xác. Mối quan hệ
vừa gắn kết thống nhất, vừa độc lập ấy đã được khoa học tâm linh khẳng định mà
đặc trưng là hiện tượng ngủ mơ và cận tử.
Ngủ mơ: Hầu hết người
nào cũng ngủ mơ. Khi mơ thân xác vẫn nằm đấy, nhưng tâm hồn thì đã tách khỏi,
mộng du tới nơi khác, có thể giống, có thể không giống thế giới thực tại; “gặp”
những người có thể còn sống, có thể đã chết, có thể quen biết, có thể rất xa
lạ; chứng kiến những việc bình thường, hoặc rất ly kỳ; có nội dung và hình ảnh
lúc tỉnh dậy nhớ hết, kể lại được, có khi chỉ lờ mờ rồi quên ngay. Rõ ràng ngủ
mơ chính là tâm hồn rời khỏi thân xác.
Cận tử: Là hiện tượng
người “sống” tiếp cận với “chết” sau đó hồi sinh. Hình ảnh và sự việc thấy ở âm
gian người cận tử có thể nhớ và kể lại được. Bất luận bởi nguyên nhân gì: ốm
nặng chết lâm sàng, sống lại; tai nạn giao thông ngất, rồi tỉnh; ngạt thở dưới
nước được vớt lên cấp cứu kịp; chó dại cắn đã lên cơn mà chữa khỏi; hay tự tử
không chết... hầu hết những người cận tử kể có nhiều điểm giống nhau: hồn rời
khỏi xác bay lơ lửng trên cao, gặp hồn người đã chết đón, thấy hồ nước, dòng
sông, vườn hoa, mây chờn vờn như sương mờ, đường hầm tối đen, luồng ánh sáng
trắng loá... Không ít người sau cận tử bỗng xuất hiện khả năng đặc biệt: nhìn
thấy hài cốt, di vật trong lòng đất, nhận biết rất rõ hình bóng, nghe, hiểu và
giao tiếp được với tâm linh người quá cố, truyền đạt lại ý và lời tâm linh nói,
hoặc mời tâm linh nhập vào mình và nói lên tiếng nói của tâm linh, vẽ được sơ
đồ mộ chí người quá cố từ khoảng cách rất xa... Đó là những nhà ngoại cảm. Họ
xuất hiện từ rất sớm trên thế giới như: Eimir (Ấn Độ), Kasy (Mỹ), Fores (Anh)
... Ở Việt Nam hiện nay “Khoa Cận tâm lý” thuộc “Trung tâm khai thác tiềm năng
con người” nằm trong “Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng” đã tập hợp
được những nhà ngoại cảm nhiều uy tín như Phan Thị Bích Hằng, Đỗ Bá Hiệp,
Nguyễn Văn Liên, Thẩm Thuý Hoàn, Nguyễn Thị Phương, Nguyễn Văn Nhã... Những đề
tài nghiên cứu về khoa học tâm linh do họ thực hiện đạt kết quả cao. Hàng chục
vạn bộ hài cốt liệt sĩ, trong đó có những tên tuổi lớn, hàng ngàn phần một thất
lạc được họ tìm thấy. Một số cơ quan khoa học chuyên ngành như Bộ Khoa học và Công
nghệ, Viện Khoa học Hình sự (Bộ Công an), Trung tâm Bảo trợ Văn hoá và Kỹ thuật
Truyền thống, Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng được Chính phủ giao
nghiên cứu đã báo cáo: “Khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là có thật”. Rõ
ràng cận tử chính là hiện tượng tâm hồn rời khỏi thân xác.
Bằng tu luyện người ta
cũng có thể khiến cho hồn rời khỏi xác. Tất nhiên việc đó là rất khó, không chỉ
đòi hỏi tính khoa học mà còn phải có ý chí, nghị lực và lòng kiên trì rất cao.
Thân thể người ta có 9 cửa, nhưng duy nhất chỉ một cửa ở đỉnh đầu là nơi tâm
hồn thoát ra. Các cửa này bình thường đều đóng kín. Muốn mở không thể dùng sức,
mà bằng năng lực tâm linh. Triết gia Pla-ton viết: “ Nhờ dầy công tu luyện,
tinh thần khi đạt sự giác ngộ về chân lý, sẽ phát ra năng lực thần bí như các
nhà tiên tri, ngoại cảm”. Nhờ tu luyện mà nhà khoa học người Mỹ Rudenber có thể
nằm bất động, tập trung ý thức khiến tâm hồn ở trạng thái nửa tỉnh, nửa mê, rồi
thoát xác bay đi. Nhờ tu luyện mà các môn đệ của phái võ công Thiếu Lâm thuộc
Phật Giáo, hoặc phái Long Môn thuộc Lão Giáo có thể nhìn thấy ánh sáng bức xạ
như đám hào quang giống ngọn lửa đang cháy luôn lay động phát ra trên đầu người
khác. Từ hình dáng, màu sắc của nó có thể chẩn đoán bệnh tật và chữa khỏi bằng
phát công năng từ xa. Cũng bằng cách phát công năng có thể ép đẩy chất độc ra
khỏi cơ thể, đánh ngã người khác mà không cần động vào họ, làm cho thân nhiệt
của các sinh vật xung quanh tăng cao đến toát mồ hôi, có khi ngất xỉu, thậm chí
có thể gây biến đổi kết cấu phân tử. Đánh giá về sức mạnh con người qua khí
công, giáo sư Tiền Học Sâm, Chủ nhiệm Viện Nghiên cứu Khoa học Trung Quốc viết:
“ Sự phát hiện năng lực đặc dị của con người là đột phá quan trọng có tác dụng
vén bức màn bí ẩn của sự sống”.
Cũng bằng tu luyện
người ta có thể khiến cho hồn rời khỏi xác bằng cách thôi miên. Thôi miên là
phương pháp đưa tâm hồn con người vào trạng thái nửa tỉnh, nửa mê sâu, từ đó có
thể nhớ lại, nhìn thấy những sự việc và hình ảnh trong ký ức đã qua, thậm chí
cả tiền kiếp của mình.
Rõ ràng tu luyện cũng
khẳng định tâm hồn có thể rời khỏi thân xác.
Chuyển kiếp luân hồi:
Theo tiếng Phạn: “Luân
hồi” là vòng sinh tử. Ý nói những kiếp sống nối tiếp nhau. Theo giáo lý Đạo
Phật cuộc đời mỗi con người đều hiện hữu giới hạn và thay đổi từ kiếp này sang
kiếp khác cho tới khi giác ngộ đạt Niết Bàn mới thoát được trầm luân bể khổ
trong vòng “sinh - lão - bệnh - tử”. Muốn thế phải không ngừng tu luyện trong
các kiếp làm người chốn dương gian bởi mọi đoạn trường tái sinh khác không thực
hiện được.
Khoa học tâm linh cũng
khẳng định con người có chuyển kiếp sau khi chết. Bằng chứng là hiện tượng ký
ức tiền kiếp và sự kế thừa tài năng tiền kiếp.
Ký ức tiền kiếp: Tại
quận Doma, ngoại ô Tokyo
(Nhật Bản) trong một gia đình có cậu bé 7 tuổi tên là Trukyo Goro. Trukyo Goro
kể rằng kiếp trước bố cậu tên là Chikinoa, một nông dân ở làng Trinhoa, gần đó.
Sáu tuổi cậu chết bởi cái nhọt bị nhiễm trùng. Ba năm sau cậu tái sinh vào gia
đình hiện nay. Bà nội nghe xong liền đưa Trukyo Goro tới làng Trinhoa. Không
mất nhiều tời gian, cũng không cần hỏi ai, rất nhanh Trukyo Goro dẫn bà nội đến
đúng ngôi nhà trước đây cậu đã sống, hơn thế còn nhận ra “người mẹ kiếp trước”
của mình và những người trong gia đình. Bà mẹ cho biết mấy năm trước bà có một
cậu con trai tên là Trukysan, bị bệnh nhọt và qua đời. Những người thân cũng kể
về đứa bé ấy... Hầu như mọi việc đều rất khớp, rất đúng với ký ức tiền kiếp mà
Trukyo Goro nhớ lại. Câu chuyện này gây tiếng vang lớn trong giới khoa học và
người địa phương truyền nhau rất nhanh. Sau đó giáo sư Laphong Gat (người Anh)
đã viết thành sách có tựa đề “Truyện ký chuyển kiếp của Trukyo Goro” phát hành
ở nhiều nước trên thế giới.
Ngày 16 tháng 6 năm
1965, giáo sư Sphenson và tiến sĩ Furse Rechard thuộc “Trung tâm nghiên cứu y
học thần kinh quốc gia” (Ấn Độ) đến thăm một gia đình ở ngoại ô Niu Dely để tìm
hiểu về cô bé 8 tuổi Pusouba. Cô bé kể rằng kiếp trước cô có tên là
Mandipukawa, chồng là Chanda làm nghề đạp xích lô. Một lần chồng say rượu quá
tay đánh chết cô... Bằng những thông tin từ cô bé hai nhà khoa học tìm được đến
nơi mà kiếp trước cô bé đã sống và xác minh chủ gia đình này đã từng làm nghề
đạp xích lô, có người vợ bị chết do “tai nạn”. Điều rất lạ là khi họ đưa cô bé
tới, cháu còn nhận ra được từng người quen thân trước đây, tuy nhiên thái độ
hoàn toàn bình thản không có vẻ gì là thù hận. Câu chuyện trên được hai nhà
khoa học báo cáo với chính quyền địa phương. Cảnh sát mở lại cuộc điều tra và
hung thủ phải nhận tội. 9 tuổi cô bé quên hết không nhớ gì về “tiền kiếp” của
mình nữa và phát triển tự nhiên như các bạn cùng lứa.
Kế thừa tài năng tiền
kiếp: Tại Los Anges (Mỹ), một buổi chiều tháng 8 năm 1971, vợ chồng thương gia
Ferida đang đi dạo trong vườn, bỗng họ nghe từ trong nhà phát ra những khúc
nhạc qua đàn Piano rất điêu luyện. Khi vào họ vô cùng ngạc nhiên thấy Lemon,
đứa con trai 7 tuổi của mình đang say sưa lướt những ngón tay trên phím, mà
trước đó thằng bé chưa hề học Piano. Từ hôm ấy, mấy ngày sau Lemon chơi hàng
giờ liền những bản giao hưởng rất độc đáo của nhà dương cầm nổi tiếng Ochivara
đã qua đời từ năm 1945. Tiến sĩ Decass, chuyên nghiên cứu hiện tượng đầu thai
chuyển kiếp viết: “Nếu khi một người biểu lộ tài năng mà bản thân anh ta hoàn
toàn không hề có, thì điều này chứng tỏ sự kế thừa tài năng kiếp trước, nếu kỹ
năng ấy chỉ có ở một người thôi” và theo Decass nghệ sĩ dương cầm Ochivara quá
cố chính là kiếp trước của Lemon. Thật ra về kế thừa tài năng tiền kiếp đã được
nghiên cứu từ thời cổ đại. Baratu, nhà triết học Hy Lạp nhận định: “ Nếu có
người rất dễ dàng có thể học nhanh chóng một kỹ sảo nào đó thì điều này cho
thấy anh ta đã biết kỹ sảo ấy từ kiếp trước”.
Một số nước trên thế giới, có cả Việt Nam đã từng xuất hiện những cháu bé ba,
bốn tuổi chưa hề đi học, nhưng có thể đọc được báo, diễn đạt rất trôi chảy,
hoặc giải được những bài toán số học.
Tuy nhiên những ký ức
tiền kiếp hoặc kế thừa tài năng tiền kiếp chỉ xuất hiện khi còn nhỏ dưới 10
tuổi và cũng chỉ duy trì trong thời gian ngắn rồi bị những quan hệ và thế giới
thực tại chèn lấp xoá bỏ để thay dần bằng những định hình, phát triển nhân cách
mới. Tiến sĩ Ross viết: “Do ảnh hưởng thế giới vật chất của cuộc sống hiện tại
mà khả năng liên hệ với ‘ký ức tiền kiếp’ và ‘kế thừa tài năng tiền kiếp’ đều
tiêu tan”.
SỐNG VÀ CHẾT
Sống
Là khi tâm hồn và thân
xác cùng tồn tại, gắn kết nhau, định hình và phát triển thành một cá thể nhân
cách trên thế giới dương gian.
Sống thế nào? Là câu
hỏi mà những ai trọng nhân cách luôn trăn trở. Suy cho cùng cuộc sống của mỗi
người là tổng hoà các mối quan hệ với thiên nhiên, với xã hội và với cộng đồng.
Muốn tồn tại, phát triển, muốn sống có ý nghĩa rất cần phải hiểu và dần làm chủ
các mối quan hệ đó.
Với thiên nhiên: Phải
không ngừng khám phá, nắm được bản chất và quy luật vận động để tránh, để
chống, để chinh phục, để tận dụng khai thác mọi tác động của thiên nhiên vì
cuộc sống con người. Phải hiểu về âm dương, ngũ hành, về vũ trụ, mây, mưa, sấm
sét, về cây trồng, vật nuôi,về gieo cấy thu hoạch,bảo quản, chế biến, về khoa
học, kỹ thuật, công nghệ... Chúng ta đang sống trong thời đại mà thiên nhiên và
môi trường từng ngày, từng giờ biến đổi khôn lường. Tầng ozon bị huỷ hoại, trái
đất nóng lên, băng tan ở Bắc Cực, nước biển dâng cao, thảm thực vật ngày càng
co hẹp, nguồn nước cạn kiệt, động đất, lũ lụt, sóng thần và biết bao thảm họa
khủng khiếp khác.
Đồng thời nhân loại
cũng đạt được không ít thành tựu vĩ đại. Những phát minh khám phá về zen di
truyền, về kỹ thuật số, về lòng đất, lòng biển và vũ trụ... Cùng với tự nhiên
còn biết bao ngành thuộc khoa học xã hội như lịch sử, triết học, đạo đức, tôn
giáo, địa lý, tâm linh... tác động mạnh mẽ tới đời sống con người. Trong bối
cảnh như thế, nếu mỗi chúng ta không trang bị cho mình sự hiểu biết cần thiết
thì cuộc sống sẽ ra sao?
Với xã hội: Loài người
từ cuộc sống bầy đàn, đến chế độ bộ, thị tộc, rồi công xã nguyên thuỷ, phong
kiến, tư bản... Xu thế tất yếu là tổ chức quản lý, điều hành xã hội bằng pháp
luật. Pháp luật là hệ thống các quy phạm có tính bắt buộc thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị quy thành luật và được bảo vệ bởi quyền lực nhà nước. Pháp
luật tương ứng với từng kiểu nhà nước và nhà nước quản lý điều hành xã hội bằng
pháp luật. Tất cả mọi người đều chịu sự chi phối và bình đẳng trước pháp luật. Ngay
từ thế kỷ thứ 3 TCN, Hàn Phi Tử đã viết: “ Pháp luật không hùa theo bất cứ thế
lực nào. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không sót
kẻ thất phu. Bậc vua sáng khiến pháp luật chọn người chứ không tự mình tiến cử,
khiến pháp luật đo lường công lao chứ không tự mình tính toán. Pháp luật là quy
tắc của thiên hạ. Lấy pháp luật trị tội thì dân chịu chết mà không oán. Lấy
pháp luật định công thì dân nhận thưởng mà không cho là ân đức. Quan lại trị
dân bằng pháp luật thì dân theo, không trị dân bằng pháp luật thì dân kháng.
Người dưới lấy pháp luật phục vụ người trên thì bọn dối trá không thể lừa chủ,
bọn ghen ghét không thể có cái bụng kẻ giặc, bọn xu nịnh không thể bợ đỡ xảo
trá, ngoài ngàn dặm không dám làm điều trái”. Sở dĩ con hổ khống chế được con
chó là nhờ có nanh vuốt. Nếu hổ bỏ nanh vuốt mà trao cho chó thì ngược lại, chó
sẽ khống chế hổ. Nanh vuốt giống như hình và đức. Hình là phạt. Đức là thưởng. Vua
dùng hình và đức không đúng pháp luật sẽ không tạo ra tín. Tín là nền tảng của
phép trị quốc. Có lần Tử Cổng hỏi Khổng Tử: “ Việc chính trị nên như thế nào
?”. Khổng Tử đáp: “Túc thực, túc binh, dân tín chí dĩ”. (Đủ ăn, đủ binh và được
dân tin ). Tử Lộ lại hỏi: “ Trong ba điều ấy, nếu phải bỏ một, thì bỏ cái gì
?”. “Bỏ binh”. “ Nếu hai điều còn lại phải bỏ một, thì bỏ cái gì ?”. “Bỏ thực”.
Điều thứ ba phải giữ, bởi mất lòng tin của dân là mất tất cả. Tín quan trọng là
thế. Không có tín sẽ không có uy. Không tín, không uy sẽ không quản nổi xã tắc
và nước sẽ loạn. Không có nước nào luôn luôn mạnh. Cũng không có nước nào luôn
luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật mạnh thì nước mạnh. Hễ những người
thi hành pháp luật yếu, thì nước yếu. Nhà Tống (Trung Quốc) một vương triều tồn
tại hơn ba trăm năm nhờ giữ vững kỷ cương phép nước, nhờ các bậc minh vương như
Tống Thái Tổ, Tống Thái Tôn, Tống Nhân Tôn, Tống Thần Tôn ... luôn kiên trì chủ
trương trị quốc bằng pháp luật, nhờ những quan tư pháp chính trực thanh liêm,
thiết diện vô tư như Bao Công. Vụ án “Đả Long Bào” là điển hình của thể chế
chính trị lấy pháp luật làm nền tảng. Là nạn nhân của những thủ đoạn vô cùng
độc ác do Lưu Nương Nương chủ mưu, thái giám Quách Hoè tòng phạm dùng xác mèo
lột da thay thế hài nhi Thái tử vừa được Lý Nương Nương sinh ra... mà hai chục
năm sau vô tình nhà vua mang tội bất hiếu với mẹ đẻ. Sau khi rõ nhân chứng, vật
chứng để bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật, nhà vua hạ chỉ cho Bao Công lập
tức thăng đường xét xử. Đây là vụ kỳ án chưa từng có. Chánh toà là Phủ doãn phủ
Khai Phong và bị cáo là nhà vua. Mọi trình tự xét xử được tiến hành theo đúng
luật. Hình phạt cho bị cáo là đánh năm mươi trượng. Nhà vua sẵn sàng cam chịu.
Nhưng lo bảo toàn ngọc thể để quốc vương tiếp tục điều hành xã tắc, Bao Công có
“sáng kiến” treo Long Bào của vua lên đánh đủ năm mươi trượng. Long Bào là biểu
tượng uy thế tối cao quyền lực. Đánh vào Long Bào có nghĩa mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật bất luận là Hoàng đế hay thảo dân. Sau khi bản án được thi
hành, nhà vua hạ chiếu ban bố thông cáo để khắp bàn dân thiên hạ biết về vụ án
này. Một quốc gia có những bậc vua sáng như thế, những quan toà như thế, nhất
định quốc gia đó mạnh.
Những đời sau, nhất là
khi Tống Thần Tôn, Vương An Thạch, Bao Công… qua đời, pháp luật rệu rã, kỷ
cương phép nước buông lỏng triều Tống mau chóng suy tàn để rồi Kim, Liêu,
Nguyên nổi lên bá chủ. Rõ ràng nước thịnh dân an, quốc gia hùng mạnh là nhờ ở
pháp luật. Bộ luật quan trọng nhất của một quốc gia là Hiến pháp. Hiến pháp đại
diện quyền lợi của quốc gia chứ không thuộc riêng một giai cấp nào, một đảng
phái chính trị nào. Hiến pháp là ý chí, nguyện vọng của toàn dân do những luật
gia ưu tú soạn thảo, được toàn dân tham gia góp ý và được Quốc hội, những đại
biểu có đức, tài do dân bầu ra thảo luận, thông qua. Dù một đảng độc quyền
thống trị hay đa đảng. Dù nội các này đổ, nội các khác thay thế đều phải tuân
thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp. Hiến pháp là nền tảng cho ổn định, là cơ sở cho cả
hệ thống luật pháp, đảm bảo cho sự vững mạnh và phát triển của đất nước. Hàn
Phi Tử viết: “ Nhờ dây dọi thẳng mà cây cong bị đẽo. Nhờ cái mực nước bằng mà
chỗ cao, chỗ nghiêng bị gọt. Nhờ treo cái cân lên mà bớt được bên nặng, thêm
vào bên nhẹ. Nhờ cái đấu, cái thạch mà bớt được cái nhiều, thêm được cái ít.
Cho nên đã lấy pháp luật trị nước thì chỉ cốt theo pháp luật mà làm. Pháp luật
không hùa theo người quyền thế. Sợi dây dọi không uốn theo gỗ cong. Khi đã thi
hành pháp luật thì kẻ khôn không từ, kẻ dũng không tránh, bất luận là vua chúa
hay thảo dân”. Hoàng Thái Cực,văn võ song toàn, túc trí đa mưu, là bậc minh
quân sáng lập vương triều nhà Thanh. Năm 1673, sau thời gian đem quân đi đánh
Triều Tiên về nhà vua biết các vương, các tướng, các quan có nhiều hành vi vi
phạm pháp luật, lộng quyền tham nhũng. Ông lệnh cho cho quan chấp pháp điều tra
kỹ, kê tội rồi chuyển qua Bộ Hình thẩm nghị. Có 64 người phạm tội, gồm con
trai, anh em, phò mã và các cháu nhà vua. Bộ Hình thỉnh thị xin nhà vua ban
lệnh xử trí thế nào. Hoàng Thái Cực không do dự, truyền: “ Cứ xử đúng theo luật
pháp!”. Kết quả tử hình 24 người, cách chức 13 người, còn lại đánh roi, phạt
tiền. Anh trai nhà vua là Đại Thiện, quan to trong triều, quy định chỉ được 12
hộ vệ, nhưng cậy thế là anh vua tuyển thêm hai người nữa. Hoàng Thái Cực lập
tức triệu tập chư vương đại thần họp. Nhà vua xử phạt anh trai. Sự nghiêm minh
ấy giúp xã tắc vững bền. Ngày nay, nói rằng xây dựng nhà nước pháp quyền mà
người ở cấp này, chức nọ lại được “đặc đãi”, pháp luật đến gần họ phải dừng, phải
báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét cho ý kiến chỉ đạo rồi mới được làm và làm
theo chỉ đạo. Thế thì còn gì là pháp luật nữa. Người dân không sợ luật nghiêm
mà chỉ sợ luật không nghiêm, nhất là không nghiêm ngay từ những người thực thi
pháp luật. Bởi thế sẽ tạo kẽ hở cho bao che, hối lộ, tham nhũng, sẽ mất lòng
tin, gây oan ức phẫn nộ trong dân, sẽ tiềm ẩn mâu thuẫn xã hội và mầm loạn sẽ
phát sinh. Một chế độ mà luật pháp không nghiêm thì rất đáng báo động. Một quốc
gia nếu không có những quan lại kiên quyết giữ vững kỷ cương phép nước, không
có các bậc đại thần dám can gián để nhà vua tránh được sai lầm thì hiểm họa
diệt vong đã ở ngay trước mắt.
Mỗi quốc gia đều có tới
hàng trăm, hàng ngàn luật và sẽ không ngừng tăng nhanh cả số và chất lượng. Mỗi
con người từng ngày, từng giờ luôn sống trong sự ràng buộc, chi phối của rất
nhiều luật: Luật dân sự, Luật tố tụng dân sự, Luật hình sự, Luật tố tụng hình
sự, Luật giao thông, Luật hôn nhân và gia đình, Luật đất đai, Luật cư trú, Luật
lao động, Luật doanh nghiệp, Luật thuế, Luật giáo dục, Luật nhà ở... cùng biết
bao quy định dưới luật.
Khổng Tử dạy: “Làm phải
theo luật. Sống phải theo đạo”. Muốn làm theo luật phải hiểu luật. Hiểu luật là
cách tự vệ tốt nhất. Hiểu luật để không phạm luật, để không bị kẻ cậy quyền bắt
nạt, để tấn công kẻ vi phạm pháp luật bảo vệ mình, bảo vệ người khác. Nhiều
người phạm luật bởi không biết, không hiểu luật. Song cũng không ít kẻ cố tình
“lách luật”. Quốc gia nọ dưới quyền cai trị của một tên bạo chúa vô cùng tàn
ác, dân tình oán hận muốn ra đi. Bạo chúa liền ban bố đạo luật: Ai rời bỏ đất
nước cũng được, nhưng với điều kiện khi qua cửa ải phải nói một câu. Câu đó
đúng bị chặt đầu, sai bị treo cổ. Như thế chắc không kẻ nào qua được. Nhưng
không. Một đoàn người tới cửa ải, đồng thanh nói: “Hãy treo cổ chúng tôi đi !”. Quan trấn ải
không biết xử trí thế nào. Bởi nếu treo cổ, tức là họ nói đúng. Mà nói đúng,
theo luật phải chặt đầu. Nếu chặt đầu, tức là họ nói sai. Mà nói sai, theo luật
phải treo cổ. Bất lực, quan trấn ải đành phải cho cả đoàn người qua. Một câu
nói chỉ có thể đúng, hoặc sai. Đúng, sai đều phải chết. Luật như thế tưởng đã
quá chặt chẽ, vậy mà vẫn có kẽ hở để “lách” qua. Mới biết việc làm luật sao cho
đủ, chặt chẽ, kín kẽ, cụ thể, chính xác, đồng bộ quả là khó và việc thực thi
nghiêm minh pháp luật để từ đó tạo được tín, được uy càng khó hơn. Pháp luật là
công cụ hữu hiệu để trị quốc. Luật phải được xác lập trên cơ sở của đạo và đạo
phải dựa vào sự bảo đảm của luật. Trong luật có đạo và trong đạo có luật. Thước
đo của cả luật và đạo là lòng dân. Mục đích của luật trước hết để răn đe, sau
mới trừng trị. Thời nhà Tần chủ trương trừng trị nặng những tội nhẹ. Bởi tội
nặng khó phạm, tội nhẹ dễ phạm nhưng cũng dễ tránh. Luật làm cho người ta bỏ
cái dễ phạm mà không quên sợ cái khó phạm, đó là đạo của việc trị nước. Nếu tội
nhỏ không sinh, tội lớn không mắc thì sẽ không loạn. Dùng hình phạt nặng trị
tội nhẹ để cả tội nặng và tội nhẹ đều không phạm, như thế gọi là dùng hình phạt
để lọai trừ hình phạt. Làm quan toà khi xét xử, phán quyết cần làm cho bị cáo
biết lỗi nhận ra lỗi, biết tội nhận ra tội, thương xót họ, tìm cách cứu giúp họ
chứ không nên hãnh diện về tài hùng biện của mình và tỏ ra mình nhiều quyền
lực. Một viên chức chân chính của ngành luật pháp không thể bị ma lực của đồng
tiền mua chuộc, cũng không thể bị sở hữu của các thế lực, hay chính khách, mà
chỉ thuộc về công lý. Thời Xuân Thu, Lý Ly làm quan coi ngục đời Tấn Văn Công,
vì nghe lời cáo sai, lại không tra xét kỹ đã giết nhầm một người nên vô cùng
hối hận. Ông tự trói mình, tấu xin vua xử mình tội tử hình. Tống Văn Công rất
xúc động, phán: “Cấp dưới của khanh sai, khanh lại nhận hết trách nhiệm đòi xử
tội mình. Vậy khanh là cấp dưới của trẫm, khanh sai thì trẫm phải chịu tội ư?”.
Lý Ly tâu: “Chức trách của quan coi ngục
được quy định rõ trong luật. Hạ thần làm sai để người khác chết oan thì phải
chịu xử tội chết. Thần biết Hoàng thượng gia ân, nhưng pháp luật không thể
không nghiêm, thần mong được toại nguyện”. Nói xong rút kiếm tự cắt cổ mình.
Giữ luật nghiêm, nhưng không được lạm dụng pháp luật để đàn áp, để thực hiện
mưu đồ phi chính, bất nghĩa hoặc bù lấp cho sự yếu kém, bất lực trong quản lý
vận hành xã hội. Đảm bảo nghiêm minh chặt chẽ về pháp luật, đồng thời phải mở
rộng dân chủ, giải phóng sự sáng tạo. Đã có thời do không kiểm soát khống chế
nổi bệnh dại, lập tức người ta ra lệnh cấm nuôi chó. Thành tựu lớn của loài
người trải qua bao nhiêu đời là thuần hoá được “khuyển”, “mã” từ hoang dã thành
vật nuôi. Đó cũng là loài vật rất thông minh, rất trung thành và tình nghĩa với
chủ, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, khi thịnh, lúc suy mà con người coi
như bạn. Giết và cấm nuôi chó vừa phản khoa học vừa trái đạo lý. Nếu tư duy
kiểu như thế thì điện giật chết nhiều người: cấm điện? Ôtô, xe máy làm ách tắc
giao thông, gây tai nạn: cấm ôtô, xe máy? ... Do yếu kém, bất lực không quản
được thì cấm. Cách làm đó là phạm luật và phản luật.
Thời Chiến Quốc, dân
thành Phú Thứ có tập quán làm việc ban đêm. Quản Thục là quận thú ra lệnh cấm,
vì làm đêm đốt lửa dễ gây hoả hoạn. Dân bất bình lắm, nhưng do mưu sinh nên họ
vẫn lén lút làm đêm. Vì lén lút nên càng nhiều hoả hoạn. Khi quận thú Liêm Pha
về thay, ông bãi bỏ lệnh cấm, cho dân được làm đêm, song nhà nào cũng phải có
bể nước để kịp thời dập lửa khi cháy. Dân phấn khởi nghiêm chỉnh chấp hành,
không có hoả hoạn mà kinh tế phồn thịnh. Muốn quản lý điều hành quốc gia bằng
luật pháp thì phải đủ luật, luật phải đồng bộ, phải phù hợp với thực tế, đặc
biệt phải nghiêm. Phạm luật phải xử theo luật, bất luận là ai, hoàng đế hay thảo
dân. Không biết dụng luật, dụng luật không nghiêm gây bất bình trong xã hội
khiến kỷ cương rệu rã, đất nước suy vong, trách nhiệm thuộc những người đứng
đầu bộ máy công quyền, đứng đầu quốc gia và cũng phải xử theo luật. Có như thế
nước mới thịnh, dân mới an.
Với cộng đồng: Cộng
đồng hẹp là gia đình, dòng tộc, rộng là quốc gia, quốc tế. Karl Marx viết: “Con
người là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Trong đó bản thân luôn là chủ
thể. Vì vậy tìm hiểu, phân tích, đánh giá đúng bản thân là không thể không làm.
Hơn thế, phải làm thật nghiêm túc và khách quan. Người ta thường có thói quen
sống theo bản năng, ít khi tự phân tích chính mình, ít dám nhìn thẳng vào bản
chất mình mổ xẻ cho kỹ, tìm ra hết để biết tất cả cái tốt, cái xấu, công và
tội. Suy cho cùng thì ai cũng có tốt, có xấu, có công, có tội, mà trước hết là
tội với chính bản thân mình, thậm chí hành hạ và giết chết nhân cách của chính
mình. Càng về già càng có điều kiện sống nhiều bằng suy nghĩ và càng thấy rõ sự
hãnh tiến, háo danh, hám lợi, kèn cựa, ghen ghét, đố kỵ, tham lam của mình
trước đây sao mà lố bịch, mà hèn hạ, càng thấy xót xa ân hận và tủi hổ. Bởi vậy
mà muốn khám phá mình hơn, muốn hiểu mình hơn và muốn sống lương thiện hơn. Một
lần Tử Lộ hỏi Khổng Tử: “Ở làng nếu có người được tất cả dân chúng ca tụng thì
đó là người thế nào ?”. Khổng Tử đáp: “Đó không phải người hiền”. Tử Lộ lại
hỏi: “ Nếu có người bị tất cả dân chúng ghét, thì đó là người thế nào ?”. Khổng
Tử đáp: “Đó cũng không phải người hiền”. “ Vậy thế nào là người hiền ?”. “ Ai được
người thiện ưa và người bất thiện ghét thì đó là người hiền”. Bơỉ thế muốn hiểu
mình hãy tự hỏi ai yêu mình và ai ghét mình? Họ là người thế nào? Nghĩa là phải
hiểu mình và hiểu người. Không hiểu mình, hiểu người sẽ không hiểu được đời.
Không biết dùng chính mình thì sao biết dùng người. Ta là ai? Ta là gì? Ta thế
nào? Tốt? Xấu? Mạnh? Yếu? Sở trường? Sở đoản? Dũng? Hèn? Quân tử? Tiểu nhân
?... Nghĩa là tất cả những gì thuộc bản chất, bản lĩnh, bản tính mà ta có hoặc
không có đều phải biết. Để từ đó tự thấy ta có thể dùng được vào việc gì và
việc gì không thể dùng. Ở đời, tài năng mỗi người có lớn và có nhỏ. Tài nhỏ
không dùng vào việc lớn được và tài lớn cũng chưa chắc đã làm được việc nhỏ.
Sau khi lấy thiên hạ, Lưu Bang hỏi Hàn Tín: “Ngươi xem ta có thể thống lĩnh đại
quân trăm vạn được không?”. Hàn Tín đáp: “Không”. “Chục vạn quân được không?”.
“Không”.
“Vậy bao nhiêu?”. “Một vạn thôi”. “Còn ngươi?”. “Càng nhiều càng tốt”. “Vậy sao
ta làm vua, ngươi chỉ làm tướng?”. “Vì bệ hạ không giỏi cầm quân, nhưng giỏi
cầm tướng”. Phải chăng Hàn Tín đúng. Bởi Lưu Bang đã dùng được cả Hàn Tín,
Trương Lương, Tiêu Hà... Ở đời có người chỉ huy tướng được, chứ không chỉ huy
quân được và ngược lại. Đối với bậc minh chủ, nếu có được lòng dân và nhân tài
sẽ có được thiên hạ. Lưu Bang là thế. Ta có thể thấy cái cách ngàn bước mà
không thấy được lông mi của mình. Không phải cái cách ngàn bước gần, cái lông
mi xa, mà bởi không thể làm được. Giống như lực sĩ sức địch muôn người cũng
không thể nhấc nổi chính mình. Cho nên phải biết tài nào dùng việc nấy. Giỏi
dụng binh thì để chỉ huy quân đội. Tài công nghệ thì dùng chế tạo máy móc.
Thông thạo buôn bán thì dùng phát triển thương mại. Sắc sảo biện luận thì dùng
ngoại giao. Hiểu mình thì biết dùng mình. Hiểu người thì biết dùng người. Không
biết được cái yếu của mình, của người sẽ không thấy được cái mạnh của mình, của
người. Không thấy được cái yếu trong cái mạnh và không thấy được cái mạnh trong
cái yếu của mình, của người sẽ không biết dùng mình và dùng người. Hiểu mình,
hiểu người thì những thứ tưởng bỏ đi cũng có thể dùng vào việc hữu ích. Thời
Thiên chuyên nghề trộm cắp, rất giỏi đào ngạch chui tường được các hảo hán
Lương Sơn Bạc thâu nạp dùng ngay cái biệt tài ấy và anh ta trở thành một lính
thám báo siêu hạng. Hơn thế, đại ca Triều Cái trong “Thuỷ hử” còn biết dùng
người điếc làm hầu cận, người câm làm giao liên, người què coi chòi canh... Cho
nên dùng người không nhất thiết nhằm vào kẻ đã thành danh, mà cái chính là phải
hiểu và phát hiện ra tài năng tiềm ẩn ở họ. Giống như “thiên lý mã”, khi còn
nằm dưới gầm xe chở muối, Bá Nhạ đã phát hiện ra những tố chất của ngựa quý bởi
Bá Nhạ biết xem tướng ngựa. Nếu không có Bá Nhạ thì “thiên lý mã” sao có cơ hội
bộc lộ khả năng phi thường của nó. Thời Chiến Quốc, chư hầu tranh bá, nhiều
minh chủ ý thức được tầm quan trọng của việc dụng nhân tài. Lỗ Trang Công phá
lệ dùng Tào Quệ mà đánh bại đối thủ mạnh hơn mình. Tề Hoàn Công bỏ qua thù oán
cá nhân dùng Quản Trọng làm Tướng quốc mà trở nên siêu cường. Ngô Vương dùng
Tôn Vũ giỏi binh thư nên đại phá quân Sở... Đặc biệt nước Tần, hầu như đời nào
cũng biết trọng dụng nhân tài. Biết Lý Bách Hề là bậc siêu phàm từng làm quan
đại phu nước Ngu không may sa cơ, Tần Mục Công tìm mọi cách cứu giúp đưa về
phong làm Thừa tướng. Lý Bách Hề không phụ ân nghĩa ấy hết lòng phò tá. Ông còn
quy tụ và tiến cử cho Tần Mục Công nhiều hiền tài nổi tiếng khác như Kiển Thúc,
Mạnh Minh Thị, Do Dư... Nhờ thế nước Tần trở nên hùng mạnh hai lần đại phá quân
Tấn, băt Tây Nhung thần phục, trở thành một trong năm bá chủ. Đời Tần Hiếu Công
rất mực đề cao và trọng dụng Thương Ưởng làm quân sư. Nhờ những cải cách triệt
để của Thương Ưởng mà nước Tần đứng đầu bẩy nước hùng mạnh nhất thời Chiến
Quốc. Đời Tần Huệ Vương biết lôi kéo, dùng Cam Mậu người nước Sở mà đánh bại
nhiều chư hầu lớn ở phía Đông mở mang bờ cõi. Đời Tần Vũ Vương biết Trương Nghi
có tầm chiến lược phong chức Tướng quốc, dùng làm thuyết khách đem “Kế hợp tung”
để phá “Kế liên hoành” của đối phương. Đời Tần Chiêu Vương biết Phạm Duy là
nhân tài bị nước Ngụy hãm hại đã tìm cách cứu đưa về phong làm tướng. Nhờ “Kế
viễn giao cận công” do Phạm Duy đề xuất mà đánh bại nhiều đối thủ... Đến đời
Tần Thuỷ Hoàng biết trọng dụng Trịnh Quốc người nước Hàn, một chuyên gia rất
giỏi về thuỷ lợi. Nhờ kế sách của Trịnh Quốc mà cả vùng Quan Trung khô cằn trở
nên phì nhiêu, màu mỡ, năm nào cũng được mùa lớn. Biết lôi kéo, trọng dụng Lý
Tư đến từ nước Sở, Uý Liêm đến từ nước Ngụy, rồi Mông Điền,Vương Tiễn và nhiều
người tài khác phong làm tướng... Nhờ thế mà diệt Tề, phá Sở... thống nhất
thiên hạ.
Hiểu người, thắng người
đã khó, nhưng hiểu mình và thắng mình còn khó hơn nhiều. Bởi bí mật lớn nhất ở
đời là chính mình và kẻ thù lớn nhất ở đời cũng là chính mình. Lão Tử dạy: “Lo
thắng người thì loạn. Lo thắng mình thì an”. Có những thứ chỉ mở mắt không thấy
được, phải mở lòng, mở óc, mở tâm mới thấy. Đại vương Trần Hưng Đạo viết: “Hiểu
được mình là anh. Thắng được mình là hùng” quả chí lý và sâu sắc. Hiểu mình
luôn kèm với rèn mình. Khổng Tử dạy: “Tu thân - Tề gia - Trị quốc - Bình thiên
hạ”. Ngài coi cộng đồng nhỏ là gia đình. Gia đình giữ vai trò cầu nối giữa bản
thân với cộng đồng lớn quốc gia, quốc tế. Tu thân là rèn luyện bản thân. Tề gia
là giữ hoà thuận gia đình mình. Trị quốc bình thiên hạ là trách nhiệm với Tổ
quốc. Tu thân để đạt chính nhân quân tử. Quân tử là tiêu chí đạo đức, nhân cách
của những người biết sống có đạo. Người quân tử thấy sai thì sửa chứ không bội
ước. Chết cho cái chí của mình chứ quyết không đem cái chí của mình làm nô lệ.
Chịu chết chứ không chịu nhục, không chịu làm điều ác. Không xu phụ quyền thế.
Không khiếp sợ uy vũ. Tìm minh chủ tôn phò chứ quyết không luồn cúi kẻ thất
phu. Coi trọng tình nghĩa, không tham lam vật chất. Nhân hậu, khoan dung, không
để bụng những sai lầm của người khác. Lấy trung thành, tín, thật làm chủ đích.
Người quân tử buồn vì không có khả năng chứ không buồn vì người khác không biết
đến mình. Người quân tử không vì lời nói của người mà dùng người, cũng không bỏ
người vì lời nói của họ. Người quân tử cho rằng nếu làm điều gì không ngay
thẳng thì dù nhìn thấy đứa trẻ con cũng nơm nớp lo sợ. Nếu không làm điều gì
khuất tất thì dẫu trước ngàn vạn binh đao cũng vẫn ung dung thanh thản. Người
quân tử hàng ngày tự xét mình nhiều lần, thấy không làm điều gì xấu thì không
phải lo. Người quân tử thản nhiên thư thái, thắng không kiêu, bại không nản,
nhiều khi lấy bại làm vinh chứ không coi là nhục nếu mục đích việc làm đó cao
cả. Người quân tử không nghĩ điều ác, không nói lời ác, không làm việc ác. Người
quân tử oán lớn cũng quên, nhưng ơn nhỏ cũng nhớ. Người quân tử dù bị người phụ
chứ không phụ người. Người quân tử phù suy, không phù thịnh và cho rằng cảm
phục, học được ở người thất bại nhiều hơn ở kẻ thành công. Vẻ đăm chiêu của
người thất bại có chiều sâu nội tâm và toát lên sự đau khổ cao quý. Còn gương
mặt kẻ thành công chỉ đầy tự mãn, thậm chí kiêu ngạo. Người quân tử coi bản
thân là cái gốc của gia đình. Gia đình là cái căn bản của xã hội. Việc nước
chẳng qua là việc nhà mở rộng. Có tu thân mới tề gia trị quốc bình thiên hạ
được. Bởi thế tu thân là nền tảng của đạo. Phàm ở đời cái gì gắn với nhân cách
đều có đạo. Văn có đạo văn, võ có đạo võ, nghề nào có đạo của nghề ấy,cây bút,
thanh kiếm, đồng tiền, cây đàn, cho đến thưởng trà, thưởng rượu, hiếu, hỷ,
cương, nhu, nhẫn, nộ... đều mang hồn của đạo. Có người chỉ biết nghề mà không
hiểu đạo của nghề. Cầm trong tay cây bút, thanh kiếm, đồng tiền mà không hiểu
đạo của cây bút, thanh kiếm, đồng tiền. Có hai loại “chính đạo” và “tà đạo”.
Ứng với “chính đạo” là chính tâm. Ứng với “tà đạo” là tà tâm. Phải phân biệt để
hướng “chính đạo” loại “tà đạo”. Bao trùm là “Đạo làm người”. Đó là Đại đạo.
Trong Đại đạo gồm nhiều tiểu đạo: với Tổ quốc: Đạo trung; với tổ tiên, ông bà,
cha mẹ: Đạo hiếu; với vợ chồng: Đạo nghĩa; với anh chị em: Đạo đễ; với con cháu:
Đạo từ; với thày cô giáo: Đạo sư phụ; với bầu bạn: Đạo hữu; với đồng loại: Đạo
nhân... Sống phải có đạo. Vô đạo không phải sống mà chỉ là tồn tại. Hàn Phi Tử
viết: “Mắt không nhìn thấy mặt mình được nên phải lấy gương để soi. Cái khôn
không tự biết mình được nên phải lấy cái đạo để sửa mình. Cái gương không có
tội vì đã thấy những chỗ sẹo. Cái đạo không có thù oán vì đã làm rõ cái sai.
Con mắt không có gương thì không thể dựa vào cái gì để sửa râu mày. Con người
không có đạo thì không biết dựa vào đâu để sửa nhân cách”.
Đạo làm người rất trọng nhân cách. Nhân cách là biểu tượng giá trị cuộc sống
mỗi người. Cao thượng hay thấp hèn, quân tử hay tiểu nhân đều thể hiện ở nhân
cách. Có thể mất mọi thứ nhưng không thể mất nhân cách. Lịch sử đã để lại không
ít gương sáng của những nhân cách lớn: triều Tây Hán, Tiêu Hà giữ chức Tể tướng
phò Lưu Bang. Năm 206 TCN giúp Lưu Bang đánh chiếm Hàm Dương, kinh đô nước
Tần.. Vàng bạc châu báu, gác tía lầu son, mỹ nữ tuyệt sắc giai nhân không làm
ông rung động. Ông lệnh cho thuộc hạ phải thu thập, bảo quản toàn bộ hồ sơ lưu
trữ đem đến cho ông đọc. Nhờ thế ông nắm được mọi tình hình từ đất đai, địa
hình sông núi, dân số lao động, kinh tế, chính trị, văn hoá, phong tục tập
quán... giúp Lưu Bang hoạch định kế sách trị quốc.
Xét thấy Tiêu Hà có
nhiều công lớn, suốt đời thanh bạch, vua Hán Cao Tổ ban lệnh cho Tiêu Hà được
chọn vùng đất nào trù phú để vua ban. Chần chừ mãi, nhà vua thúc ép Tiêu Hà mới
chọn mảnh đất cằn cỗi ở vùng quê hẻo lánh dựng nhà cho gia đình mình. Nhà rất bình
thường, chẳng có tường bao, cổng kín. Bạn bè không hiểu ý ông, hỏi, Tiêu Hà đáp:
“Tôi thân làm Tể tướng, nếu vì xây dựng nhà riêng mà phải đuổi dân đi nơi khác
thì sao xứng đáng là Tể tướng. Tôi chọn nơi đất cằn này sống sẽ có rất nhiều
điều lợi. Thứ nhất, là giáo dục con cháu phải biết lao động cần cù và tiết
kiệm, chúng sẽ sớm trở thành người lương thiện. Hai là, không phải lo nghĩ về
sau con cháu tranh giành của cải, cũng chẳng lo kẻ có quyền thế cướp đoạt.”. Con
cháu của Tiêu Hà tuân theo lời ông dạy luôn giữ được nếp sống nghèo mà trong
sạch, yên phận giữ mình không màng danh lợi. Bởi thế trong cuộc đấu tranh giành
quyền lực nhiều công thần khác như Hàn Tín, Bành Việt đều gặp họa bị chết thê
thảm nhưng gia đình dòng tộc Tiêu Hà vẫn bình yên vô sự.
Năm 283 TCN, Liêm Pha
nổi tiếng là tướng giỏi được vua phong làm Thượng khanh. Lạn Tương Như là quan
văn có tài ngoại giao, dùng thuyết pháp mà lấy được ngọc báu trở về nước Triệu,
phò tá vua Triệu hợp hội với nước Tần thắng lợi, có công lớn được vua ban chức
ngôi vị trên Liêm Pha. Vốn tự đắc, Liêm Pha hận Lạn Tương Như, cho rằng mình đổ
xương máu chốn sa trường, Tương Như chỉ là mọt sách uốn ba tấc lưỡi mà được đặt
trên mình nên tìm cách rêu rao nói xấu hạ nhục Tương Như. Tương Như biết nhưng
vẫn luôn nhẫn nhịn cốt giữ hoà khí. Mỗi khi thiết triều ông thường cáo ốm để
Liêm Pha không phải đứng sau mình. Có lần Tương Như ngồi trên xe ra cửa, Liêm
Pha chặn đường. Tương Như tìm lối khác tránh bạn. Lính dưới quyền ông ức quá
trách ông sao sợ, chịu hèn. Ông khuyên giải, hỏi: “Liêm tướng quân so với vua
Tần, ai đáng sợ?”. Quân sĩ đáp: “Liêm tướng quân sao so được với vua Tần ạ”.
Tương Như nói: “Khi xưa ta phò tá Triệu Vương tới Mãnh Trì hội kiến với vua
Tần, nhục mạ quần thần họ, mà vua Tần không dám ỷ thế làm nhục vua ta. Vậy nay
lẽ nào ta sợ Liêm Pha. Ta tránh Liêm tướng quân cốt để giữ hoà khí. Bởi nước
Tần sở dĩ không dám diễu võ dương oai với nước Triệu vì Triệu đang có ta và
Liêm Tướng Quân. Nay nếu ta và Liêm Tướng Quân bất hoà thì liệu Tần Vương có để
cho nước Triệu yên không? Sở dĩ ta nhún nhường là vì ta đặt lợi ích xã tắc lên
trên, ân oán cá nhân xuống dưới đó thôi”.
Liêm Pha biết chuyện ấy
trong lòng vô cùng ân hận. Ông chọn một ngày, cởi trần ôm gậy đến nhà Lạn Tương
Như nhận lỗi và xin được Tương Như đánh đòn trị tội. Lạn Tương Như hết sức cảm
động, nước mắt lã chã ôm vị tướng già mời ngồi lên ghế. Từ đó hai đại quan văn
và võ xoá bỏ hết hiềm khích, thề sống chết có nhau vì giang sơn xã tắc.
Lý Tích là người tài
trí, sâu sắc. Ông theo Lý Mật khởi nghĩa chống nhà Tuỳ, rồi sau đó cùng Lý Mật
theo Lý Uyên lập ra nhà Đường. Về sau do Lý Mật bất mãn không phục nhà Đường về
chuyện phong thưởng nên âm mưu tạo phản bị Lý Uyên (vua Đường Cao Tổ) giết
chết. Lý Mật bị giết, nhiều bạn cũ của Lý Mật sợ liên luỵ đã xa lánh gia đình
Lý Mật, thậm tệ hơn còn lợi dụng cơ hội nói xấu, đổ lỗi cho Lý Mật để lấy lòng
Đường Cao Tổ. Lý Tích không làm vậy. Biết
Lý Mật bị giết, ông kêu khóc thảm thiết, còn liều chết dâng biểu nói rõ mình là
bạn thân của Lý Mật và xin được nhận lo mai táng cho Lý Mật. Đường Cao Tổ rất
cảm phục tấm lòng thuỷ chung tình nghĩa với bạn của Lý Tích, không những không
trị tội mà còn phong cho Lý Tích chức Lai Quốc công. Là người trí tuệ, mưu
lược, một lòng trung, Lý Tích giúp triều Đường nhiều việc lớn được Lý Thái Tông
(Lý Thế Dân) rất tin cậy bổ nhiệm làm Bình Bộ Thượng thư. Ông phò cả ba đời vua
Đường từ Cao Tổ, Thái Tông và Cao Tông mà không hề phạm lỗi.
Đạo làm người coi trọng
bản lĩnh. Bản lĩnh là chỗ dựa của nhân cách, luôn gắn bó, hỗ trợ nhau và không
thể thiếu trong cộc sống. Bản lĩnh giúp nhân cách trụ vững trước bất kỳ áp lực
nào.
Năm 548 TCN, tướng quốc
nước Tề là Thôi Trữ. Thôi Trữ giết vua Tề là Trang Công để thâu tóm quyền lực.
Ông ta gọi quan Thái sử Bá đến. Thôi Trữ nói: “Nhất định ông phải viết Tiên
Vương chết vì bệnh nặng”. Thái sử Bá nói: “Lịch sử không thể ghi chép hồ đồ.
Viết theo sự thật là bổn phận của Thái sử”. Thôi Trữ không ngờ Thái sử Bá dám
chống lệnh, giận giữ hỏi: “Ông định viết thế nào?”. Thái sử Bá đáp: “Tôi viết
xong rồi, ông sẽ biết ngay thôi”. Thôi Trữ cầm lên đọc thấy rõ: “Hạ ngũ nguyệt
Thôi Trữ thích quân” (Vào tháng 5 mùa hạ, Thôi Trữ giết vua). Thôi Trữ nói: “Ông
phải viết khác đi, nếu không ta giết ông”. Thái sử Bá lắc đâù: “Giết thì giết,
ta không thể viết khác”. Thôi Trữ liền chém đầu Thái sử Bá.
Thái sử Trọng là em trai Thái sử Bá
nghe tin anh bị giết liền đến thay chức vụ của anh. Thôi Trữ kinh ngạc vì thấy
Trọng vẫn viết đúng như anh trai mình, liền rít lên: “Ông không biết Thái sử Bá
đã bị chém hay sao?”.Trọng đáp: “Thái sử chỉ sợ viết không trung thực chứ không
sợ chết”. Thôi Trữ lại chém Thái sử Trọng. Thái sử Thúc, em trai Thái sử Bá và
Thái sử Trọng được vào thay. Ông cũng chép đúng như hai anh của mình và lại bị
chém. Thái sử Quý, em út của ba Thái sử trên vào thay, vẫn viết: “Hạ ngũ nguyệt
Thôi Trữ thích quân”. Viết xong ông nói với Thôi Trữ: “Ông càng giết người thì
càng chứng tỏ sự tàn bạo. Nếu tôi không viết thì người khác sẽ viết và thiên hạ
cũng biết. Ông có thể giết chết Thái sử nhưng không thể giết chết được sự thật”.
Thôi Trữ nghe xong không dám giết. Bản lĩnh các quan Thái sử chân chính đã bảo
vệ nhân cách cao thượng của họ khiến hôn quân bạo chúa Thôi Trữ phải sợ.
Đạo làm người coi trọng
lòng nhân ái, vị tha. “Nhân chi sơ, tính bản thiện” - người ta khi mới sinh ra
đều tốt. Rồi sau đó do tác động và ảnh hưởng của môi trường sống khiến bản chất
biến đổi theo: tốt, xấu, thiện, ác, trung, gian... xuất hiện đan xen nhau. Tuy
nhiên quy luật chung đều hướng thiện.Cho nên ta ghét điều xấu nhưng không căm ghét
người làm điều xấu. Bởi nhất thời hồ đồ họ mắc sai lầm, nhưng nếu bản chất
không xấu họ có thể ăn năn hối hận sửa chữa để trở nên người tốt, thậm chí tốt
hơn cả ta. Vì thế, ta nên thương họ, giúp họ chứ không ghét bỏ, xa lánh họ. Bản
tính con người là hiếu thắng. Thắng người ta thấy vui. Song cũng có niềm vui
lớn hơn, cao thượng hơn, khi ta tự nguyện giúp người khác hơn ta, thắng ta. Để
người khác vui và ta cũng vui vì ta đã đem niềm vui đến cho người khác.Thay vì
chỉ trích phê phán người khác bằng việc hãy đặt ta vào địa vị và hoàn cảnh của
họ xem sao rồi hãy phán xét. Phải luôn cố, gắng, nhường, nhịn, thậm chí phải
nhẫn để tránh làm tổn hại, hoặc tổn thương người khác. Trong cuộc sống ai chẳng
có ân và oán. Có ơn thì “cảm ơn” và đền ơn, đó là việc rất dễ làm, nhưng còn
oán? “Oan oan tương báo” sẽ không bao giờ hoá giải được, trái lại oán hận càng
tăng và hậu hại sẽ khôn lường. Để giải oán rất cần đến lòng vị tha nhân ái.
Điều đó khó, song hông phải không làm được nếu thật sự tâm ta thiện. “Nhân bất
thập toàn”, ở đời người nào cũng có thể mắc lỗi. Phải biết nhận lỗi và khắc
phục. “Đố ai tránh khỏi lỗi lầm. Nếu mà biết sửa thì tâm sẽ nhàn”. Không nên
oán trách buộc tội cho người khác, hãy cố hiểu và tha thứ cho họ. Tất nhiên rất
khó, đòi hỏi phải có tâm hồn cao cả và sức tự chủ mạnh mẽ vượt qua mọi tự ái và
quyền lợi cá nhân, phải trung thực, trước hết trung thực với chính mình mới làm
được. Đáng lẽ buộc tội, chỉ trích ai thì thay vì ta ráng hiểu họ, tìm nguyên
nhân hành vi của họ. Đó là cái gốc của tình nghĩa. Đến như Thượng Đế còn đợi
cho tới khi con người chết đi rồi mới xét công, luận tội. Tại sao chúng ta lại
không độ lượng được như Ngài? Ở đời mỗi người một số phận, một hoàn cảnh rất
khác nhau: giầu nghèo, sang hèn, học vấn cao thấp,uy phong quyền lực, tiểu tốt
vô danh... Bất luận là người thế nào cũng có thể so sánh được với nhau bằng một
đơn vị chung, đó là Tâm. Thiện, ác, chính, tà, trung, gian, tốt, xấu... đều
được thể hiện qua tâm. Sướng hay khổ cũng ở tâm. Tâm nhàn thì sướng, tâm không
nhàn thì khổ. Chỉ một cái tâm khổ thì dù có bao nhiêu cái sướng khác cũng không
bù đắp nổi. Tâm còn là thước đo để khẳng định giá trị cuộc sống mỗi người. Nhà
thơ Nazim Hitmet viết: “Chốn cung đình đâu chỉ toàn thánh thiện. Nơi thảo dân
không chỉ có con người”. Đúng. Bất luận đẳng cấp nào, nếu “tâm” thiện là thánh
và “tâm” ác là quỷ. “Tâm” không phụ thuộc bởi địa vị, chức tước. Tự đánh giá
mình, hay đánh giá người khác đều phải lấy tâm làm căn cứ. Hãy đánh giá nhau
bằng tâm và đối xử với nhau bằng tình. Tâm lớn thì tình nặng và ngược lại. Ở
đời mỗi người đều phải xây dựng cho mình cái nền móng của cuộc sống. Nền móng
vững vàng nhất là tâm và tình. Hai thứ đó giống như kim cương không chịu tác
động bởi thời gian, bởi tiền tài danh vọng, bởi chức tước, quyền lực... Dù hoàn
cảnh khó khăn, thử thách khắc nghiệt thế nào, tâm và tình vẫn luôn toả sáng.
Hãy rộng lòng nhân ái vị tha kể cả với những kẻ đã từng gieo thù rắc oán cho
ta, hành hạ ta đủ cách. Nếu suy nghĩ ở khía cạnh khác thì vô tình họ đã giúp ta
việc rất lớn. Đó là họ kích thích, thôi thúc để vì tự ái và tự trọng buộc ta
phải quyết chí vươn lên hơn hẳn con người cũ của ta. Ta được như hôm nay, một
phần là nhờ họ. Vì thế những ý nghĩ trừng phạt, trả thù tội ác do họ đã gây cho
ta là không nên. Ta sống để trở thành người lương thiện chứ không phải sống để
gieo thêm tội ác. Đời luôn cần ở ta lòng từ bi bác ái. Vả lại họ không hoàn
toàn là người bỏ đi. Phạm sai lầm không có nghĩa thành vô dụng. Mọi thứ ở đời
đều có thể biến đổi và cải tạo được. Hàn Tín lúc hàn vi phải nuốt hận chui qua
háng gã hàng thịt, sau này theo Lưu Bang làm tới Tể tướng ông cho người tìm
bằng được kẻ đã làm nhục mình trước đây, không phải để trả oán, mà phong cho
chức quan nhỏ để đền ơn. Bởi nhờ nỗi nhục đó Hàn Tín mới phẫn chí tu rèn lo
nghiệp lớn.
Năm 1038, Nùng Tồn Phúc
thủ lĩnh châu Thảng Do nổi lên xưng đế chống triều đình lập ra nước Trường Sinh
ở vùng núi Tây Bắc. Năm sau, vua Lý Thái Tông đích thân cầm quân đi đánh dẹp
bắt bọn Nùng Tồn Phúc về Thăng Long xử chém. Nùng Thế Cao là con Nùng Tồn Phúc
trốn thoát. Sau này Lý Thái Tông rộng lòng nhân ái phủ dụ phong làm quan và
Nùng Thế Cao trở thành tướng trấn ải biên cương.
Giăng Pon II, 84 tuổi,
28 năm làm giáo hoàng, bị ám sát hụt. Sau khi lành vết thương ông vào tận bệnh
viện thăm kẻ tội phạm và tuyên bố tha thứ cho hắn. Những người như thế quả là
có lòng nhân ái vĩ đại. Đức Phật tổ Thích-ca Mầu-ni dạy: “Oán không bao giờ
diệt nổi oán. Chỉ có tình thương mới hoá giải được thôi”. Cuộc đời ngắn ngủi.
Khi nhắm mắt xuôi tay người nào cũng thế, đều chỉ mang theo hai thứ: Phước đức
và tội lỗi. Phước đức gắn liền với lời ca ngợi và lòng biết ơn. Tội lỗi đi kèm
với sự khinh bỉ và nỗi oán hận. Mọi thứ khác như quyền lực, giầu sang... đều vô
nghĩa. Không ai giúp mình, che chở, nâng đỡ và cứu mình bằng chính phước đức của
mình. Cũng chẳng có ai hành hạ và cướp đi của mình tất cả bằng chính tội lỗi của
mình. Bởi thế hãy cố tu rèn tích góp phước đức và loại dần tội lỗi. Phước đức làm
cho con người đáng yêu khi đang sống, đáng kính khi đã chết, còn tội lỗi thì
ngược lại. Ông cha ta thường dạy: “Của cho là của được”. “Của được” chính là phước
đức.
Đạo làm người coi trọng đức khiêm tốn và cầu thị. Trong sách “Luận ngữ” Khổng
Tử viết: “Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu độn. Công lao to hơn thiên
hạ nên giữ bằng cách khiêm cung. Sức khoẻ hơn người nên giữ bằng sự nhút nhát.
Giầu có bốn bể nên giữ bằng vẻ nhún nhường”. Không có việc gì nhỏ đối với bộ óc
lớn. Ngọn đèn lồng lắc lư trong nhà thờ cổ ở một làng quê nước Ý đã gợi giúp
Galilée phát minh ra đồng hồ thiên văn. Bồn nước tràn giúp Arsimede tìm ra định
luật về áp lực của nước. Lý Bách Hề viết: “Bậc trí giả nghĩ nghìn điều cũng có
điều hỏng. Kẻ ngu đần nghĩ nghìn điều cũng có điều được. Cho nên dẫu là lời của
thánh nhân hay của phạm nhân vẫn có thể cân nhắc mà nghe, dùng”. Chí sĩ phương
Đông thường ghét phô trương, ưa ẩn dật. Khôn ngoan phải làm vẻ dại khờ. Đấy là
cái đạo để bảo toàn thân danh của các bậc hiền triết. Lão Tử dạy: “Đại sảo
nhược chuyết”. Tức là kẻ tuyệt khéo phải giả vụng về. Biết bao danh nhân tìm
mọi cách dấu mình, nuôi chí lớn ngầm chọn minh chủ. Khương Tử Nha (nhà Chu) vào rừng ngồi câu cá ở Bàn Thạch đón vận nước. Khổng
Minh Gia Cát Lượng (Tam Quốc) lấy hiệu Ngọa Long (Rồng ngủ) nằm đọc sách trên
lều cỏ chờ thời. Bàng Thống lấy hiệu Phục Phượng (Phượng hoàng ẩn mình) trong
núi suy ngẫm đợi hào kiệt. Dao Quảng Hiếu (triều Minh) khoác áo cà sa nương nhờ
cửa Phật tìm cơ hội... Người không tham lợi nhỏ thường chí lớn. Người biết giả
vờ ngây dại thường thuộc loại phi phàm, như Tôn Tẫn giả điên, Câu Tiễn giả hèn
chịu nhục mới làm nên đại nghiệp. Chỉ những kẻ tiểu nhân mới thích phô trương.
Chỉ đồ dởm, đồ giả mới đem rùm beng quảng cáo trước thiên hạ. Xưa nay các bậc
đại thánh, đại nhân thường mai danh ẩn tích. Văn Thiên Tường (triều Tống) viết:
“Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh. Thuỷ bất tại thâm phục long tắc linh” (Núi
không cần cao nếu có tiên ở sẽ nổi danh. Nước không cần sâu nếu có rồng phục sẽ
thiêng). Nhà văn Nguyễn Hiến Lê là tác giả hơn trăm bộ sách về lịch sử, triết
học, văn học, giáo dục... Khi Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu trao giải “Văn chương
quốc gia” trị giá mấy chục lượng vàng, ông từ chối không nhận với lý do mục
đích ông viết không phải để dự thi nhận thưởng. Ông khuyên đem số vàng đó giúp
các nạn nhân chiến tranh. Chỉ những nhân cách lớn mới làm được như thế, còn
những kẻ tầm thường thì chạy chọt hết cửa này, cửa nọ để có giải. Viết được vài
ba cuốn sách đã háo danh thích nổi tiếng, bỏ tiền thuê những bồi bút viết bài
lăng-xê lên báo, giới thiệu trên truyền hình, tổ chức triển lãm bản thảo viết
tay, tự coi mình như vĩ nhân. Những việc như thế rất không nên. Bởi “thùng rỗng
kêu to” chỉ có thể lừa được những người nông cạn, nhẹ dạ mà thôi.
Ở đời “hữu xạ tất nên
hương”. Đã là yếu nhân lịch sử thì dù đứng đâu cũng là chỗ đứng của lịch sử và
ngược lại. Sách cổ “Hàn Thi ngoại truyện” có đoạn: “Là bậc thông minh tài trí
chớ nên khinh ngạo. Có sức khoẻ chớ nên đè nén người. Còn kém thì phải học,
chưa biết thì phải hỏi. Đối với họ hàng, làng xóm phải biết giữ cái trật tự
trên dưới. Đối với người nhiều tuổi phải biết giữ cái lễ con, em. Đối với người
bằng lứa phải giữ cái tình bầu bạn. Đối với trẻ thơ phải dạy bảo, khoan dung.
Tâm, tình luôn rộng rãi thênh thang như trời đất bao la”. Socrat luôn nói với
học trò: “Thày chỉ biết chắc một điều là: Thày không biết gì hết”. Giáo huấn về
đạo khiêm tốn, cầu thị Tăng Tử viết: “Giầu mà không khinh nghèo. Có địa vị cao
sang mà biết trọng kẻ thế cô. Học nhiều thông thái mà biết hỏi, biết nghe kẻ ít
học bất tài. Nhiều tuổi từng trải mà biết đề cao kẻ còn trẻ ngây thơ. Bị xúc
phạm mà biết kiềm chế. Đó là cái đạo nên theo”. Trong lịch sử, hầu hết các
triều đại oanh liệt đều dưới quyền các bậc minh chủ biết khiêm tốn cầu thị tìm
chọn nhân tài làm quân sư và chịu nghe can gián. Vua Thành Thang (nhà Thương)
có quân sư Y Zoãn. Chu Văn Vương (nhà Chu) có
Khương Tử Nha. Tề Hoàn Công (Tề) có Quản Trọng. Ngô Phù Sai (Ngô) có Ngũ Tử Tư.
Câu Tiễn (Việt) có Phạm Lãi. Tần Hiếu Công (Tần) có Thương Ưởng. Lưu Bang (Hán)
có Trương Lương. Tào Tháo (Ngụy) có Tuân Úc. Tôn Quyền (Ngô) có Lỗ Túc... Ở
nước ta, An Dương Vương có Cao Lỗ. Lý Nam Đế có Triệu Quang Phục. Đinh Bộ
Lĩnh có Lê Hoàn. Lê Đại Hành có đại sư Khuông Việt. Lý Công Uẩn có thiền sư Vạn
Hạnh. Trần Thái Tông có Trần Thủ Độ. Lê Lợi có Nguyễn Trãi...
Lịch sử cũng chứng minh
những ông vua không nghe can gián phải chuốc họa. Hạng Vũ (nhà Hán) bỏ ngoài
tai lời khuyên của Phạm Tăng nên đại bại phải tự vẫn chết. Ngu Công (nước Ngu)
không nghe lời can ngăn của Cung Chi Kỳ mà mất nước. Ở nước ta sau thời Hùng
Vương nhiều lần Triệu Đà huy động đại binh đánh chiếm Âu Lạc đều thất bại vì Âu
Lạc có thành Cổ Loa kiên cố và có nỏ thần. Triệu Đà dùng thủ đoạn giả hoà hiếu
sai con trai là Trọng Thuỷ sang cầu thân, thực ra là làm gián điệp. Trọng Thuỷ
yêu công chúa Mỵ Châu. Triệu Đà xin cầu hôn Mỵ Châu cho con trai. Thục Phán An
Dương Vương đem việc này hỏi Cao Lỗ, vị tướng thân cận, người chỉ huy xây thành
Cổ Loa. Cao Lỗ can: “Xưa nay chưa thấy kẻ bại trận lại xin cho con trai ở rể.
Chẳng qua họ muốn biết cách bố phòng Cổ Loa mà thôi. Việc ngàn lần không nên”.
An Dương Vương nổi giận: “Nhà Triệu muốn mượn hôn nhân để hoá bỏ hiềm khích ta
lẽ nào không thuận. Ông già rồi, ta cho ông về nghỉ”. Cao Lỗ điềm nhiên: “Việc
đúng sai có đất trời soi sáng. Thần không ân hận khi nói điều phải”. Vì không
nghe lời can gián của Cao Lỗ, An Dương Vương mắc mưu giặc và mất nước.
Đời Trần Duệ Tông nổi
cộm nhất là chiến tranh với Chiêm Thành. Năm 1376 quân Chiêm sang đánh Hoá Châu
(Nghệ An), vua Duệ Tông đích thân đem quân trừng phạt. Năm 1377 đến Quy Nhơn
đánh lấy đồn Thạch Kiều rồi tiến vào Đồ Bàn, kinh đô nước Chiêm. Chế Bồng Nga
chiếm giữ ở ngoài thành, cho người trá hàng tâu với Duệ Tông rằng Chế Bồng Nga
đã chạy trốn xin tiến binh ngay. Duệ Tông tưởng thật lệnh đánh vào thành. Đại
tướng dưới quyền là Đỗ Lễ can gián mãi mà vua không nghe. Khi quân Việt tới
chân thành Đồ Bàn, bất ngờ quân Chiêm từ bốn phía đổ ra vây chặt. Quân Việt
thua to. Trần Duệ Tông chết trong đám hỗn chiến.
Hồ Quý Ly có người cô
lấy vua Trần Minh Tông. Nghệ Tông là con Minh Tông nên có họ thân về đằng ngoại
với Hồ Quý Ly. Nghệ Tông trao Quý Ly thâu tóm quyền lực và hắn ngang nhiên lộng
hành. Quý Ly xui giục Nghệ Tông giết Phế Đế, cháu gọi Nghệ Tông là bác, lập con
Nghệ Tông là Thuận Tông lên ngôi. Những tướng lĩnh và quan đại thần ai không
cùng cánh với Quý Ly cũng bị giết theo. Quý Ly gả con gái cho Thuận Tông, hắn
trở nên bố vợ vua và càng tác quái. Từ năm 1390 sau khi Trần Khát Chân giết
chết Chế Bồng Nga, đỡ phải lo đối phó với giặc ngoài Quý Ly càng thao túng
triều chính. Các bậc trung thần kể cả hoàng tử, thân vương đều bị Quý Ly ép
Thượng hoàng Nghệ Tông giết. Sĩ phu có người lo lắng cho đất nước dâng sớ tâu
với Thượng hoàng về sự lộng hành của Quý Ly. Thượng hoàng liền chuyển sớ đó cho
Quý Ly xem. Quý Ly lập tức trả thù. Thượng hoàng Nghệ Tông vì thiếu đức khiêm
tốn cầu thị, xa bỏ trung thần, không nghe can gián, ưa phỉnh nịnh, dùng gian tế
giết cả con cháu họ hàng đến nỗi cơ đồ nhà Trần sụp đổ rơi vào tay Hồ Quý Ly
vào năm 1400. Mới biết mọi độc quyền dù tư tưởng hay hành động đều là nguyên
nhân dẫn đến suy vong. Cho nên hãy mở rộng lòng mình, tiếp nhận giao lưu trao
đổi, tôn trọng và giải phóng sự sáng tạo, có như thế mới thâu nạp được trí tuệ
khắp thiên hạ. Trong cuộc sống người tài thường tự trọng, thích suy nghĩ độc
lập, quyết định độc lập và dám chịu trách nhiệm; người tài rất ghét bị áp đặt,
bắt nghĩ, bắt nói, bắt làm theo người khác như cỗ máy; người tài thích trao đổi
bình đẳng, thắng thua không quan tâm, nhưng thật giả, đúng sai phải rõ; người
tài thích lối sống quân tử tôn thờ chân lý và sẵn sàng chết vì tri kỷ; người
tài trọng nhân cách luôn quan sát, suy ngẫm, chiêm nghiệm để hoàn thiện mình.
Trên bia đá đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, tiến sĩ Thân Nhân Trung
viết: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì nước mạnh rồi lên
cao. Nguyên khí suy thì nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế, minh
vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng
nguyên khí làm việc đầu tiên”.
Đạo làm người khuyên
cảnh giác với tham vọng. Ở đời sự huỷ hoại nhân cách con người nhanh nhất là
tham vọng, đặc biệt tham quyền lực và tiền bạc. Tham vọng là sự ham muốn đến mê
muội, điên cuồng, vượt qua giới hạn đạo lý. Để có tiền người ta có thể bất chấp
pháp luật kể cả giết người. Để có quyền lực người ta có thể dùng mọi thủ đoạn
kể cả hèn hạ và tàn nhẫn với ngay người thân thích ruột thịt của mình nhằm đạt
mục đích. Vì quyền lực mà cha con, anh em, họ hàng cùng huyết thống giết chết
nhau tranh giành ngôi báu. Vì quyền lực mà lạnh lùng nhẫn tâm tru di ba họ
người khác. Vì quyền lực mà các phe phái sát phạt chém giết nhau. Vì quyền lực
mà nạn binh đao bùng nổ xương chất thành núi, máu chảy thành sông.Vì quyền lực
mà dùng đủ mưu mô nham hiểm, tàn bạo sát phạt lẫn nhau, gieo thù rắc oán, đời
này kiếp khác, mà khốn nạn thay, nhiều khi chỉ tranh cướp nhau cái “quyền” để
người khác sai khiến như nô lệ, “quyền” để bợ đỡ xu nịnh một cách hèn hạ, “quyền”
vênh váo tự phụ lố bịch đến không còn nhân cách. Ban đầu thì những suy nghĩ và
hành động của họ cũng theo sự cuốn hút trong sáng, thậm chí chấp nhận hy sinh
vì lý tưởng tốt đẹp. Nhưng rồi sự cám dỗ như ma quỷ của quyền lực và tiền bạc
khiến cái động cơ đáng trân trọng đó không còn nữa. Trước hết là không dám chấp
nhận hy sinh, thu vén cá nhân, tính toán thiệt hơn... Dần dần toàn bộ suy nghĩ
và việc làm đều bị chi phối bởi quyền lực và danh lợi. Luôn tự coi mình là quan
trọng và thích được người khác nể sợ mình. Phát biểu gì, làm gì, đứng đâu cũng
thích nổi hơn người khác, lấn át người khác. Thích đi đứng khệnh khạng, thích
điều mình nói ra được những kẻ xu nịnh gọi là “lời vàng ngọc” nhằm chỉ đạo
thiên hạ. Thích được phỏng vấn, được lên hình trên ti-vi, in ảnh vào mặt báo,
đến dự họp được mời ngồi ghế trên, được giới thiệu trịnh trọng đầy đủ mọi chức
vụ, được đứng dậy khẽ cúi đầu đáp lại những tràng vỗ tay như đập mẹt... Nghĩa
là rất khoái được tung hô, tâng bốc. Háo danh, hám lợi. Hãy coi chừng! Nhiễm
bệnh rồi đấy. Một thứ bệnh xã hội nan y vô phương cứu chữa. Đó là “bệnh nghiện
quyền lực”, nguy hiểm hơn cả Sida, Aids và tệ hại hơn cả ma tuý. Bởi các bệnh
đó còn có thuốc, có các trung tâm cai nghiện, chứ bệnh này không thể chữa trị,
rất dễ chết, mà chết nhục nhã. Bởi “bệnh nghiện quyền lực” dẫn người ta đến
tham vọng mù quáng. Tham vọng mù quáng dễ làm người ta đánh mất mình và bán
mình cho quyền lực. Thiện tính bị diệt, ác tính nổi lên và trong tuyệt vọng
điên cuồng người ta có thể bất chấp thủ đoạn dù nham hiểm thâm độc để đạt tham
vọng. Cứ thế quyền lực và tiền bạc như một thứ vi trùng ngấm dần vào máu làm
huỷ hoại “tâm”, tê liệt “tình” khiến họ dần dần biến chất. Cũng vì quyền lực và
tiền bạc mà các băng nhóm tội phạm sẵn sàng tổ chức những cuộc tàn sát đẫm máu
thanh toán nhau, vũ trang chống lại chính phủ và lập nhiều đường dây buôn bán
ma tuý xuyên quốc gia, reo rắc tội ác, huỷ hoại sự sống biết bao sinh mạng.
Theo Khổng Tử, quyền
lực và tiền bạc không có trong tiêu chí của thành đạt và hạnh phúc. Những người
đã từng một thời nắm quyền lực khi về già khó mà có được sự thanh thản trong
lòng. Bởi dù ít hay nhiều, vô tình hay cố ý đều có thể đã làm tổn hại đến người
khác. Mà làm tổn hại người khác bằng đao kiếm, súng đạn hay quyền lực thì cũng
như nhau cả thôi. Nhiều khi quyền lực và tiền bạc là họa chứ không phải phúc. Ở
Hàng Châu (Trung Quốc) có một pho tượng bằng sắt lở lói. Đó là tượng Tần Cối
quỳ lạy trước mộ Nhạc Phi. Không biết do ai dựng lên và cũng không ai phá đi. Người
đời mỗi khi tới đó thắp hương khấn vái cúi lạy Nhạc Phi thì lại lấy roi quất,
hoặc dùng tay tát vào mặt Tần Cối. Nhạc Phi là danh tướng, mưu lược gia kiệt
suất trí dũng song toàn. Thuở nhỏ gia cảnh bần hàn, cuộc sống khổ cực. Là người
có chí lớn, nghiên cứu binh thư, văn chương, thiên văn, địa lý. Tính tình cương
nghị quả cảm. Khi nhập ngũ mới 19 tuổi, được mẹ xăm vào lưng bốn chữ: “Tinh
trung báo quốc” để nhắc nhở con. Ông là vị tướng tung hoành chốn sa trường và
chiến thắng hiển hách. Nhưng do Tống Cao Tông, vị vua hèn yếu nghe lời tên gian
thần Tần Cối vu cho ông tội “mạc tu hữu” (có lẽ) mưu làm phản và giết hại Nhạc
Phi khi ấy ông mới 39 tuổi. Tần Cối người Kiến Khang, xuất thân quan lại, 25
tuổi làm Giám sát ngự sử, rồi Ngự sử trung thừa triều Nam Tống. Là kẻ đầy tham
vọng quyền lực, bằng mọi thủ đoạn hắn leo tới chức Tể tướng. Để củng cố địa vị
Tần Cối lập mưu giết hại các vị đại thần có công khai quốc như Nhạc Phi,Trương
Tuấn, Hàn Thế Trung. Giữ chức Tể tướng 18 năm hắn thay phó Tể tướng 18 người.
Quan trong triều ai không cùng vây cánh là hắn giết. Tượng Tần Cối bằng sắt
hoen rỉ quỳ lạy Nhạc Phi bị mọi người khinh bỉ là thể hiện lòng dân, là sự đánh
giá của hậu thế và lịch sử. Đó cũng chính là họa, là kết cục nhục nhã và bi
thảm của những kẻ tham quyền lực. Quyền lực có cả “ma”, cả “lực”, phúc họa liền
kề, là con dao hai lưỡi. Có thể kẻ nắm quyền lực lại chết bởi quyền lực do mình
nắm. Quyền lực càng lớn kẻ thù càng nhiều, sự báo thù, báo ứng càng thê thảm.
Chỉ sử dụng quyền lực vì mục đích cao cả mới tránh được họa mà thôi. Thật ra,
nếu nghĩ cho kỹ, suy cho cùng thì kẻ nắm trong tay đầy quyền lực đâu phải sung
sướng. Bởi quyền lực càng cao sự cô đơn cũng càng lớn. Như Hoàng đế, mọi lời
nói, việc làm đều nhất nhất theo lễ nghi định sẵn. Sống trong sự tung hô “Vạn
tuế !” vang trời nhưng không có được một lời tri kỷ. Cho nên trước có Tôn
Quyền, sau có Càn Long đối với thuộc hạ trong công việc là vua tôi, ngoài công
việc là huynh đệ, gắn bó như bầu bạn. Đó là tư chất của bậc minh quân biết đạo,
hiểu đời. Một hôm trời nóng nực các viện sĩ hàn lâm biên soạn bộ “Tứ khố toàn
thư” cởi cả áo ra làm việc. Đúng lúc đó Càn Long đến trong bộ thường phục.Thấy
Hoàng đế mọi người chạy trốn. Kỷ Hiểu Cương bị cận thị nặng không tìm ra áo
đành chui xuống gầm bàn. Lát sau nóng quá không chịu nổi thò đầu ra hỏi: “ Lão
già đã đi chưa ?”. Càn Long tóm được, hỏi: “Ông vô lễ thế, sao dám gọi ta là
lão già ?”. Kỷ Hiểu Cương nhanh trí diễn giải: “Tâu bệ hạ, vạn tuế - tức là đại
lão. Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia - tức là thủ. Hoàng đế còn là con Trời -
tức là thiên tử. Lão-đầu-tử tức là lão già. Hạ thần gọi như thế là tỏ sự tôn
kính đấy ạ”. Vua Càn Long phì cười ôm lấy Kỷ Hiểu Cương lòng rất vui. Mới biết
làm Hoàng đế cũng khổ lắm chứ. Nhiều khi rất cần sự giao lưu chân tình, cởi mở
không tuân theo phép tắc gò bó, không nhuốm màu sắc chính trị, nhưng đâu có dễ.
Đạo làm người khuyên
phải biết “điểm dừng”. Ở đời ai cũng có
mong muốn. Muốn dồi dào sức khoẻ, muốn có thế quyền để đảm đương trọng trách,
muốn giầu sang phú quý, muốn học vấn cao, muốn gia đình yên ấm hạnh phúc, muốn
nổi tiếng, muốn nhục dục...Tất cả những mong muốn đó đều rất chính đáng, rất
tốt đẹp nếu không vượt quá “giới hạn” đạo lý biến thành tham vọng. Dù tư hữu,
ích kỷ là bản năng bẩm sinh. Đẻ ra đã giành vú mẹ, miệng ngậm một, tay giữ một.
Lớn lên tranh ăn, chọn phần to, phần nhiều, không ăn cũng không chịu nhường cho
ai. Trưởng thành thì tranh công, giành quyền, thu vén tư lợi. Tuy nhiên vẫn
phải biết đâu là “giới hạn”. Cái “giới hạn” ấy chính là “điểm dừng”.Trong mỗi
con người đều có đức tài và mong muốn. Đem đức tài trừ mong muốn, nếu kết quả
“dương”, có nghĩa mong muốn trong “giới hạn”. Nếu kết quả “âm” có nghĩa mong
muốn quá lớn đã biến thành tham vọng. Loại người này cần phải xem xét thận
trọng. Bởi đức tài nhỏ, tham vọng lớn thì phần “âm” thiếu hụt ấy anh ta sẽ bù
lấp bằng thủ đoạn tiểu nhân kể cả tội ác để đạt mục đích.
Khi có một ưu thế nào
đấy người ta thường quá tự tin, thích phô trương mà không lường kết cục. Có sức
thường cậy khoẻ, chủ quan nên khi bị cảm nặng khó cứu. Có xe mới thích phóng
vượt người khác mà bị tai nạn. Có nhẫn kim cương, dây chuyền mặt đá quý, đồng
hồ vàng thích phô trương mà bị trấn cướp. Cho nên biết “điểm dừng” là rất quan
trọng. Nói gì, làm gì cũng cần phải tính đến “giới hạn” và chọn đúng “điểm
dừng”. Đang ở thế thượng phong phải nghĩ ngay tới lúc hạ mạt. Nhưng ở đời đã
mấy ai làm được. Thường khi giầu rất ít nghĩ lúc mình sẽ nghèo. Khi đang thịnh
rất ít nghĩ đến lúc mình suy. Khi đang chói lọi hào quang rất ít nghĩ mình thất
thế. Khi đang xinh đẹp rất ít nghĩ đến lúc mình già nua xấu xí. Khi giầu, tiền
tiêu không hết, thấy người nghèo dù đó là ruột thịt cũng tỏ ra khinh mạn. Khi
đang lắm chức nhiều quyền thì hống hách, tự cho phép mình được sai khiến cấp
dưới, coi họ như đầy tớ, mặc dù nhiều người trong số đó nhân cách và trí tuệ
hơn mình. Khi “còn duyên” nhan sắc đang độ nghiêng nước, nghiêng thành bất luận
chàng trai nào tới cầu hôn cũng cự tuyệt một cách ngạo mạn. Rồi tới một ngày
nào đó gã nhà giầu phá sản sa cơ. “Ngôi sao” nọ thân bại danh liệt bởi những vụ
tai tiếng. Ngài quan to bị kỷ luật mất chức. Cô gái nọ “hết duyên” quá lứa ế
chồng. Bấy giờ dẫu có tính đến “giới hạn” tìm “điểm dừng” thì đã muộn. Cho nên
ở đời đã biết cách leo cao thì cũng phải giỏi tìm đường xuống thấp. Cáo khôn có
ba hang, người khôn biết một đường lên phải biết ba đường xuống. “Quan nhất
thời” ngồi mãi trên ghế quyền lực sao được. Không chọn “điểm dừng” không biết
cách xuống sẽ ngã. Mà leo càng cao, ngã càng đau. Ở đời không phải cứ “tham”
cái gì là hy vọng sẽ được cái ấy. Thực tế có người chẳng mong cái gì thì lại
được tất cả. Trong khi có kẻ muốn có tất cả thì lại chẳng được cái gì. Ca dao
có câu: “Số giầu mang đến dửng dưng. Lọ là con mắt tráo trưng mới giầu”. Học
thuyết “Vô vi” của Lão Tử chủ trương: “ Cái gì đến khắc sẽ đến. Cái gì không
đến khắc không đến. Cái gì đi nhất định sẽ đi”. “Vô vi” là không bị ham muốn và
tham vọng chi phối. Người tính không bằng Trời tính. Trời cho tất cả, rồi Trời
lại lấy đi tất cả nếu sống không hợp ý Trời, nghĩa là “tâm” không thiện, “tình”
không thấu. Luật nhân quả nghiêm khắc lắm. Có kẻ khi sa cơ thất thế, thân bại
danh liệt mới sám hối rằng: “Mọi sự khốn nạn của đời tôi là do tôi tham quá.
Tham đến mù quáng, tham đến mức biến mọi người thành kẻ thù. Để bây giờ mất tất
cả lại còn phải sống trong tủi nhục và cừu hận. Giá mà trước đây tôi biết đúng
lúc phải dừng”. Quyền lực và tiền bạc có sức quyến rũ đầy ma quái đồng thời
cũng là cạm bẫy vô cùng nguy hiểm. Không tỉnh táo khôn ngoan, không biết “giới
hạn” cần phải dừng thì hậu họa sẽ khôn lường. Xưa nay chỉ những bậc đại nhân,
đại trí mới nhìn ra điều ấy và chủ động rút khỏi quyền lực đúng lúc. Biết rằng
bắt được thỏ rồi giết chó, bắn được chim rồi đốt cung, chủ soái là kẻ chung
hoạn nạn chứ không thể cùng hưởng vinh quang. “Địch quốc xong, công thần diệt”
đó là bản chất của bạo chúa nên giúp Lưu Bang thu được thiên hạ rồi Tiêu Hà,
Trương Lương từ quan về quê hoặc vào núi ẩn dật sống đời tiên du vãng cảnh.
Giúp Câu Tiễn diệt Ngô Phù Sai xong, Phạm Lãi thay tên đổi họ trốn sang nước Tề
làm thương nhân lấy tiền giúp bầu bạn và người nghèo khó. Chu Văn An giữ chức
Quốc Tử Giám tư nghiệp đời Trần Dụ Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ trạng nguyên làm
quan đại thần đời Mạc Phúc Hải. Triều chính thối nát, lương dân đói khổ, hai
ông dâng sớ đòi chém gian thần. Nhà vua không nghe. Phần thể hiện thái độ bất
bình, phần phòng lo hậu họa, cả hai ông đều trả mũ áo rút khỏi chốn quyền lực
về quê mở trường dạy học. Trong khi có người hoặc do không nhìn xa thấy rộng,
hoặc vẫn bị tham vọng quyền lực tiền bạc cám dỗ nên nỗi phải chết thảm như Hàn
Tín, Bành Việt, Văn Chủng, Lý Tư... Đến như Nguyễn Trãi, sau khi giúp Lê Lợi
đánh tan giặc Minh xâm lược, thu phục thiên hạ, xin từ quan về vùng núi Côn Sơn
ẩn dật. Vậy mà mấy năm sau vẫn bị bọn gian thần trong triều chính hãm hại bằng
thảm án Lệ Chi Viên, bị tru di ba họ. Mới biết sự tàn bạo của quyền lực khủng
khiếp thế nào. Đó là tiếng chuông cảnh tỉnh những ai vẫn u muội say mê quyền
lực.
Xin hãy nghiền ngẫm Lão
Tử. Ông sinh năm 570 TCN, còn có tên là Lý Nhĩ, quê Sơn Đông (đồng hương Khổng
Tử), là quan Thái sử uyên bác, là nhà triết học đại danh đương thời, người mà
Khổng Tử đánh giá cao và rất mực kính trọng. Học thuyết của Lão Tử lấy “Vô vi”
làm gốc. Cơ sở để đạt được “Vô vi” là: “Vô dục”- Bớt, đến tiêu diệt tham lam,
ham muốn. “Vô tranh”- Không tranh giành với ai thì cũng không ai tranh giành
với mình. “Thủ thế”- Biết lùi để tiến. “Tri túc”- Biết thế nào là đủ để dừng.
Nghĩ được vậy, làm được vậy lòng sẽ luôn thanh thản. Có lẽ nhờ thế Lão Tử thọ
160 tuổi mà vẫn minh mẫn.
Người hiểu mình, hiểu đời phải biết
cái gì mình làm được cái gì không. Khi nào nên làm, khi nào nên nghỉ. Lúc nào
đời cần mình, lúc nào không mà rút lui đúng lúc. Có người không biết rút lui
đúng lúc mà mạt vận. Đã rút rồi là thôi, là nghỉ. Trong sách “Luận ngữ” Khổng
Tử viết: “ Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính”, ý khuyên những ai đã thoái vị rồi
không nên can dự chính trường nữa. Lịch sử chứng minh ai đã rời khỏi vũ đài mà còn
cố tham gia đại sự đều là vật cản. Đáng buồn thay có những người bệnh “nghiện
quyền lực” đã ăn sâu vào tiềm thức tạo thành nếp sống khó sửa. Khi còn chức thì
lúc nào cũng tỏ ra đầy quyền uy, oai phong bệ vệ. Khi hết quyền bỗng như quả
bóng xẹp hơi, thấy thiếu tự tin, nhỏ bé đi, thấp hèn đi, nhiều lúc đi đứng, nói
năng rất gượng gạo. Họ không biết rằng khi hết chức, hết quyền mình mới sống
thật hơn, mới nhìn rõ mình hơn và nhìn rõ người khác hơn. Bởi thế rất cần tận
dụng sự nghỉ ngơi để suy ngẫm. Nhưng không, vẫn cứ thích tỏ ra mình là người
quan trọng. Không thể sống mà không có chức, không được đi họp, được ngồi ghế
trên, được giới thiệu, được mời phát biểu và được mọi người vỗ tay lốp bốp. Vẫn
cố bấu víu một chức việc gì đấy, một chút danh nào đấy, dù danh hờ, danh hão
cũng được,dù quyền rơm vạ đá cũng được. Trong khi lớp trẻ từng ngày, từng giờ
muốn đổi mới tư duy, đổi mới cách làm, muốn khẳng định mình nhưng không được,
bởi không có điều kiện, không có thực quyền. Vì thế, họ thiết tha mong các bác,
các chú, các cô về rồi thì xin “các cụ” cứ nghỉ ngơi, đừng có tham lam ngáng
chỗ nữa cho chúng cháu nhờ. Nhưng khốn nỗi “các cụ” kiên trì quá, không chịu, cứ
bám.
Đạo làm người rất coi
trọng truyền thống cội nguồn. Cội nguồn là gốc rễ nòi giống, tổ tiên, ông
cha... nối tiếp đời này đến đời khác hình thành nếp nghĩ, cách sống, tập quán
văn hoá mang đặc trưng dân tộc. Những tinh hoa truyền thống ấy được hậu thế nối
nhau kế thừa, tiếp thu, giữ gìn, bổ sung, phát triển. Cội nguồn trước hết là quê
hương nơi mình sinh ra hoặc cội rễ nòi giống, dòng tộc mình. Quê hương hẹp là làng
xóm, rộng là Tổ quốc. Ở đấy hình ảnh và những sinh hoạt của cuộc sống đã in đậm
trong tâm hồn mỗi người. Đó là cây đa đại thụ cành lá sum xuê che rợp cả một
khoảng trời, thọ hàng ngàn năm tuổi, vững vàng, uy nghi, trầm tĩnh trước mọi
thử thách và bão tố, biểu tượng của sức sống mãnh liệt, trường tồn và khí phách
hiên ngang, là hồn thiêng đất trời và tinh hoa tụ hội. Cùng dòng họ với đề, đa
là đặc trưng sự giác ngộ của Phật Tổ tạo chỗ dựa tâm linh. Dưới tán đa là trung
tâm văn hoá, trao đổi thông tin và giao lưu tình cảm của biết bao thế hệ. Đó là
những mái đình, mái chùa cổ kính, rêu phong ẩn mình giữa vườn cây quanh năm
xanh tốt đầy ắp tiếng chim. Là đầm sen hoa đỏ rực chiều hè, toả hương thơm ngào
ngạt quyện trong tiếng mõ đều đều, tiếng chuông thỉnh ngân nga. Đó là những
cánh diều lơ lửng trên không và xa xa đàn trâu bò nhẩn nha gặm cỏ dọc triền đê
uốn lượn quanh co theo dòng nước lững lờ trong vắt. Đó là những ngày đầu xuân
tưng bừng hội làng, trống rong, cờ mở với biết bao nghi lễ thiêng liêng và tràn
ngập tiếng reo hò, háo hức những trò vui truyền thống: múa lân, múa sư tư, kéo
co, đấu vật, đu bay, leo cầu phao, bịt mắt bắt vịt, thi bơi, thi lặn, đua
thuyền... Đó là những đêm trăng sáng rộn rã trống chèo, hoặc các liền anh, liền
chị quan họ giao duyên lưu luyến không muốn “giã bạn” ra về. Đó là tiếng pháo
đón giao thừa mừng năm mới, là bàn thờ gia tiên khói hương thơm ngát, là bánh
chưng, giò lụa, giò mỡ, dưa hành, là phong bao lì-xì màu đỏ đựng tiền mừng
tuổi, là những nụ cười tươi vui hồ hởi cùng những lời chúc tụng nhau, mời mọc
nhau. Đó là tiếng gà gáy sớm báo bình minh, là mùi rơm mới quyện hương lúa giữa
mùa thu hoạch. Đó là dáng mẹ già lam lũ, tần tảo, là những phiên chợ quê, quán
lá liêu xiêu với đủ loại hàng nông sản bày la liệt. Đó là những món ăn độc đáo:
bống trê kho tộ, chuối ốc nấu mẻ, cá rô rán dòn chấm nước mắm tiêu, cháo cá quả
trộn rau thìa là thái nhỏ, ếch xào mướp non, lươn om củ chuối lá lốt, nộm thập
cẩm... dùng với rượu đế nấu từ gạo nếp cái hoa vàng hạ thổ. Đó là những lúc thư
nhàn cùng bạn tri âm ngồi thưởng trà nơi quán gió. Không gian yên vắng, thoáng
mát, hoa đua nở, bướm vẽ vòng, ao thu gợn sóng, cá đớp chân bèo. Trà ngon ướp
sen, tĩnh tâm thư thái thong thả thưởng thức tiền hương hậu vị, ngâm ngợi thơ
hay, gật gù tâm đắc những điều chí lý trong đạo ngoài đời... Tất cả cảnh vật,
con người, cuộc sống sinh hoạt, cho tới tín ngưỡng, ẩm thực...là những đặc
trưng của quê hương. Tất cả đều có hồn - Hồn quê. Hồn quê quyện với hồn người
tạo ra ngọn lửa thiêng liêng không bao giờ tắt. Con chim Việt trước khi tắt thở
quay đầu về phuơng Nam
mới chết. Thành ngữ có câu: “Cáo già tìm về núi”. Biết bao Việt kiều thời trai
trẻ lăn lộn tung hoành nơi đất khách, lúc già vinh hoa phú quý không màng, lòng
lúc nào cũng ngong ngóng hướng về cố hương. Không ít người mang bệnh trầm cảm
bởi cô đơn và nỗi day dứt nhớ quê. Phẩm chất ấy thường chỉ thấy ở người phương
Đông. Người phương Tây dù thèm muốn cũng không có được. Bởi mấy trăm năm bươn
chải trong xã hội tư bản đầy biến động đã làm họ đứt hết cội rễ. Dòng máu
nguyên gốc thuần chủng mất đi thay thế bằng sự pha tạp đa huyết thống.
Người Việt gắn liền quê
hương với Tổ quốc tôn kính như Mẹ đẻ của mình. Mong muốn đem hết trí tuệ và sức
lực cống hiến để xây dựng, sẵn sàng sả thân chiến đấu để bảo vệ, “thà hy sinh
tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” (Hồ Chi Minh).
Tràn ngập niềm tự hào mỗi khi nhắc tới những trận thắng oanh liệt của tổ tiên
ông cha trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm; khi nghe những vần thơ hùng
tráng: “Nam quốc sơn hà Nam đế
cư. Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm. Nhữ đẳng
hành khan thủ bại hư” của danh tướng Lý Thường Kiệt; hoặc câu trả lời đanh thép
của Trần Bình Trọng trước kẻ thù: “Ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất
Bắc”...
Tình cảm thiêng liêng
với quê hương, Tổ quốc chính là truyền thống cội nguồn. Ca dao, tục ngũ có câu:
“Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “Khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một
mẹ chớ hoài đá nhau”, hoặc “ Thuận vợ, thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Người
Việt rất coi trọng quan hệ dòng tộc và coi gia đình là sự sống còn của hạnh
phúc. Nhìn vào lăng mộ, vào nhà thờ Tổ sẽ thấy được sự bề thế và gia giáo của
một dòng tộc. Quan hệ trong dòng tộc tình cốt nhục được coi là nền tảng và vai
vế thứ bậc là căn cứ để ứng xử. Khổng Tử dạy: “Cái mũ dù có cũ, có xấu cũng là
thứ để đội trên đầu chứ không phải để đi dưới chân. Đôi giầy dù mới, dù đẹp
cũng là thứ để đi dưới chân chứ không phải để đội trên đầu”. Nghĩa là phải có
tôn ty trên dưới, nề nếp gia phong. Lòng nhân từ bác ái được dạy dỗ, tinh thần
vượt khó hiếu học được khuyến khích, nhiều dòng họ lập văn chỉ khắc tên những
người đỗ đạt cao thuộc huyết thống vào bia đá. Ngoài xã hội có quyền cao chức
trọng thế nào, có vang danh nổi tiếng đến đâu nhưng trong dòng tộc vẫn phải rất
khiêm nhường, phải tự biết mình là “mũ’ hay “giầy” mà cư xử, phải đặt hiếu đễ
lên đầu. Nước có quốc pháp, nhà có gia pháp. Vua Tự Đức rất mê đi săn. Có lần
mải săn về muộn, quá giờ vấn an mẹ già. Thuyền vừa cập bến bên Điện Thái Hoà,
nhà vua vội lật đật đi vòng sang toà lầu của Thái hậu, lom khom đến trước ngự
tiền, vội quỳ, hai tay kính cẩn dâng roi cho mẹ rồi nằm xuống chịu đòn. Nhà vua
đã để lại cho hậu thế tấm gương về phép tắc gia giáo.
Đã là Đạo làm người thì
bậc đế vương thế, mà thảo dân cũng vậy. Không chỉ cư xử lễ độ với cha mẹ mà với
cả họ hàng ruột thịt, hàng xóm xa gần.Chúng ta ai cũng như ai, được tạo hoá
sinh ra. Rồi do năng lực cá nhân, do phân công xã hội, do may rủi của số phận
mà mỗi người làm một việc khác nhau, vị thế khác nhau, học vấn khác nhau, quyền
lực và đời sống khác nhau. Dù gì đi nữa thì cũng đều là người, đều bình đẳng
trước pháp luật, đều có chung cội nguồn hoặc cùng quê hương. Nếu may mắn phát
đạt giầu có hay quyền cao chức trọng cũng đừng vênh váo với bà con họ hàng làng
xóm, mà nên nghĩ cần làm gì để giúp đỡ mọi người, thế mới hợp đạo lý.
So với cộng đồng xã hội
và dòng tộc, gia đình hẹp hơn nhiều nhưng lại không kém phần phức tạp, đặc biệt
trong các mối quan hệ từ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cháu đều có vai
trò rường cột của tổ ấm hạnh phúc, mà cái gốc là Đạo hiếu, Đạo nghĩa, Đạo đễ,
Đạo từ... Một gia đình sống không có kỷ cương tất sẽ dẫn tới bi kịch, nhất là
lúc về già. Đã là gia đình thì mọi người phải biết gắn kết nhau, thương yêu đùm
bọc nhau, hoạn nạn cùng chia, phú quý cùng hưởng. Gia đình luuôn là cái nôi, là
tổ ấm, là pháo đài, nâng đỡ, đùm bọc, che chở cho mỗi cuộc đời, là chốn ẩn náu
cuối cùng cho mọi bất hạnh, song cũng là quyền lực tối cao giám sát lương tâm
chặt chẽ và khắc nghiệt. Ngoài xã hội anh có thể phạm tội, bị kết án, thậm chí
bị tù. Nhưng mãn hạn ra khỏi trại giam, com-lê, ca-vạt từ trên xe “xịn’ xuống,
bước vào nhà hàng, khách sạn, lập tức các nhân viên niềm nở cúi đầu cung kính,
hoặc tha hồ cười nói vui vẻ trong quán nhậu. Không ai biết anh đã từng là phạm
nhân, bởi thế không hề cảm thấy lòng tự trọng bị tổn thương. Nhưng phạm tội với
gia đình thì không. Dù chẳng toà nào xét xử, tuyên án, nhưng lương âm dằn vặt
và suốt ngày đêm anh luôn bị ám ảnh bởi những ánh mắt của người thân từ bố, mẹ,
vợ, con kể cả lân bang hàng xóm. Sống trong hoàn cảnh ấy đau lắm. Mà nỗi đau
phải chịu một mình thì rất sâu, rất lâu.
Trong gia đình tình
nghĩa vợ chồng đặc biệt quan trọng bởi nó ảnh hưởng và chi phối các mối quan hệ
khác. Ở đời tình yêu và hôn nhân thuộc hai phạm trù khác nhau. Thống nhất chứ
không đồng nhất. Có mấy ai thành công cả tình yêu lẫn hôn nhân. Bởi tiêu chí để
chọn đối tượng trong hai lĩnh vực đó nhiều khi không giống nhau. Khi yêu anh
thường bị quyến rũ bởi “hồn” người đẹp từ ánh mắt, nụ cười, mái tóc, dáng điệu,
giọng nói, thời trang và tình yêu “sét đánh” khiến anh bị chinh phục. Nhưng để
quyết định hôn nhân anh lại phải bình tĩnh tỉnh táo. Các yếu tố tình cảm lại
phải được kiểm soát bằng lý trí để nhìn nhận ở người phụ nữ vẻ đẹp của tình
thương chồng, thương con, biết cư xử có đạo lý, biết lo toan gia đình, cần cù
chịu khó, bản lĩnh vững vàng trước mọi khó khăn. Đó là vẻ đẹp của bản chất
thuộc cái “tâm” chứ không phải chỉ “hồn”, không phải hình thức bên ngoài son
phấn chưng diện. Ở đời có nhiều vẻ đẹp lắm. Vấn đề là chọn loại nào để sống và
loại nào để ngắm. Người phụ nữ khi chọn bạn đời cho hôn nhân của mình cũng thận
trọng như vậy. Vợ chồng sống với nhau bằng đạo nghĩa. Nền tảng của đạo nghĩa là
tình thương, trong đó có tình yêu. Lấy tình thương làm nền tảng tức là sự bền
vững của hôn nhân sẽ được bảo đảm. Vì tình thương, không chỉ với bạn đời của
mình, mà với cả con, cháu và những người thân trong gia đình, ta có thể vượt
qua mọi khó khăn thử thách, có thể rộng lượng tha thứ cho nhau những lỗi lầm,
nhẫn nhịn chịu đựng và giúp đỡ, chờ đợi nhau khi cần thiết để giữ gìn, bảo vệ
cuộc sống hạnh phúc lâu dài. Trong gia đình nếu người chồng là ngôi nhà, thì
người vợ là nền móng. Phải học để biết làm chồng, làm bố, làm vợ, làm mẹ. Tự
học, học ở sách báo, ở đời là chính, suy ngẫm về đạo lý rồi rút ra là chính.
Trong cuộc sống có phụ nữ làm đàn bà rất giỏi, nhưng không biết làm vợ, làm mẹ.
Có những chàng trai làm đàn ông thì được, nhưng không biết làm chồng, làm cha.
Có người quản lý điều hành một cơ quan, doanh nghiệp lớn rất giỏi, nhưng quản
lý điều hành cái gia đình nhỏ của mình lại rất dở. Xử lý các mối quan hệ xã hội
thì bình tĩnh, sáng suốt và chính xác. Nhưng khi xử lý các mối quan hệ gia đình
lại lúng túng, bị động, mò mẫm và dễ sai lầm. Vì sao? Vì việc xã hội có cách
giải quyết của xã hội, chuyện nhà có cách giải quyết trong nhà. Vì sao? Vì từ
lâu họ đã không đặt gia đình đúng với vị trí quan trọng của nó, vị trí có ý
nghĩa quyết định sự sống còn của hạnh phúc, của cả cuộc đời, không chỉ với một,
mà nhiều người. Không lấy tình thương làm nền tảng, không biết tới Đạo hiếu,
Đạo nghĩa, Đạo đễ, Đạo từ... để cư xử. Không dành nhiều thời gian, tâm huyết
suy nghĩ và làm việc cho nó như đã dành cho cơ quan, cho xã hội. Không nghĩ
rằng lo để lại cho con cháu đất đai, nhà cửa, xe cộ, tiền vàng thậm chí cả
quyền lực nữa là cần thiết, nhưng cao hơn thế, quan trọng hơn thế, sâu sắc hơn
thế và an toàn hơn thế là để lại cho con cháu cuộc đời lương thiện, giầu nhân
cách, được học hành, biết làm theo luật, sống theo đạo, không thù oán, nhiều ân
nghĩa. Tài sản vật thể có thể xin, hoặc mua được, nhưng tài sản phi vật thể thì
không, mà phải do chính mình làm ra bằng khổ công tu luyện và trân trọng giữ
gìn. Ngoài đời thế, mà trong gia đình cũng thế, mỗi người đều có một thế giới
riêng, đều có chuyện quan trọng phải nghĩ, phải lo, phải làm. Điều ấy là tất
nhiên, hợp lý và phải đạo. Nhưng khi cái quan trọng của người này lại xa lạ với
người kia thế là sẽ sống khác nhau, mầm mống của sự xa cách, thậm chí rạn nứt
sẽ xuất hiện. Cùng một mái nhà mà có lúc cảm thấy xa lạ, thấy cô đơn, thấy
không thể chia sẻ giãi bày với ai, do vậy mà nỗi buồn càng sâu. Bởi thế phải
biết tạo ra bầu trời chung thì mới gắn kết nhau được. Bầu trời chung đó chính
là những truyền thống cội nguồn, là những điều giáo huấn của Đạo làm người. Ở
đời chính kiến có thể thay đổi tuỳ theo thế cuộc và nhận thức, nhưng Đạo làm
người thì không. Trong chính trị có thể nhất thời liên minh với ma quỷ, nhưng
trong kết bạn thì không, mà phải biết chọn người có đạo.
Tóm lại, người ta khi ở
dương gian, tâm hồn và thân xác đều phải làm theo luật, sống theo đạo. Còn khi
chết thì sao?
Chết
Theo tâm linh và thế
giới quan Đạo Phật: chết là kết thúc cuộc sống trong dương gian chuyển đến âm
gian; là tâm hồn rời khỏi thân xác chốn dương gian thành tâm linh nơi âm gian; là
thân xác có hình hài ở dương gian sinh trưởng và thoái hoá theo quy luật
sinh-lão-bệnh-tử thành thây xác bị phân huỷ mất hình hài theo tập quán của mỗi
dân tộc, mỗi địa phương. Đời người không phải chỉ là kiếp sống của thể xác, từ
khi sinh ra đến khi chết là hết. Và, con người cũng không phải chỉ có cái xác
vật chất mà có cả linh hồn. Linh hồn ấy đã từng có trước khi sinh và sẽ tồn tại
sau khi chết. Để rồi sau đó lại chuẩn bị cho tái sinh kiếp sau theo luân hồi
dưới sự chi phối bởi nhân quả. Luật nhân quả cho rằng mọi hành vi tội lỗi của
kiếp trước hay các kiếp trước gây ra thì kiếp này, kiếp sau và các kiếp sau
phải gánh. Quả báo có thể giáng vào thân xác: làm mắt mù, tai điếc, tay cụt,
chân què, bại liệt bán thân, toàn thân, hoặc tàn phế ... Giáng vào trí tuệ: làm
cho ngu dốt, đần độn, ngớ ngẩn, ngây dại, điên khùng, mất trí nhớ... Giáng vào
chức tước: làm cho đang quyền cao chức trọng bỗng gặp họa bị cách chức, tù
đầy... Giáng vào danh dự: làm cho đang được mọi người trọng vọng, ma xui quỷ
khiến thế nào gây tai tiếng khiến cho thân bại danh liệt... Giáng vào nghề
nghiệp: làm cho không có nghề nghiệp, sống cầu bơ cầu bất lang thang vất vưởng.
Hoặc nghề nghiệp giỏi như bác sĩ nổi danh vô ý gây tử vong bị tước giấy phép
hành nghề và lâm vòng lao lý... Giáng vào hôn nhân: đang vui vẻ đầm ấm, hạnh
phúc, bỗng do vợ, hoặc do chồng đổ đốn khiến ly tán, đau khổ... Giáng vào gia
đình: làm cho vợ ốm liệt, hoặc chồng đui què, sinh ra con tàn phế hoặc hư hỏng,
càn quấy, nghiện hút, can án bị tù tội. Trường hợp này thường là tổng hợp quả
báo đối với các kiếp trước của cả người chồng, người vợ và con... Giáng vào sức
khoẻ: thân thể nhỏ bé, còi cọc hoặc bắt mang bệnh tật suốt đời muốn chết cũng
không được... Giáng vào tinh thần: làm cho lương tâm day dứt, đau khổ mất ngủ
triền miên, mang bệnh trầm uất sống mà khổ hơn chết, hoặc cô đơn quả phụ không
nơi nương tựa... Giáng vào kinh tế: đang ăn nên làm ra, thịnh vượng, giầu có
bỗng sa cơ, phá sản... Giáng vào cha, mẹ, con cháu, người thân: làm cho xung
khắc, bất hoà, thâm thù nhau, từ bỏ nhau, hoặc nghèo khổ, ốm đau, tai nạn, tù
tội ... Nghĩa là quả báo có thể giáng xuống bất kỳ lúc nào, hoàn cảnh nào, lĩnh
vực nào. Làm điều ác mà chưa thấy quả báo giáng, chớ vội mừng. Rồi sẽ lãnh đủ.
Phần nhiều chúng ta khi lâm nghịch cảnh hay bị những đau khổ, bất công thường
nghĩ mình oan ức vô tội mà phải chịu, chứ không nghĩ rằng mình đã từng gây ra
đau khổ cho người khác ở các kiếp trước và bây giờ phải gánh quả báo. Quả báo
không chỉ xét ở hành động gây nên tội lỗi, mà đặc biệt ở động lực bên trong của
hành động ấy. Không phải chỉ xét ở kẻ trực tiếp gây tội mà đặc biệt kẻ chủ mưu
của hành động ấy. Đồng thời cũng cần hiểu rằng dửng dưng nguội lạnh trước đau
khổ bất hạnh của người khác cũng là tội ác và cũng phải chịu quả báo.
Nhân quả là bộ luật
theo đó con người tự tạo nên thân phận tốt, xấu, sướng khổ, sang hèn, phúc họa,
may rủi, vui buồn của chính mình. Là bộ luật đặt con người trong sự kiểm toả,
trói buộc một cách tự giác để tu rèn bản thân nhằm không ngừng hoàn thiện mình.
Cho đến nay y học và
các ngành khoa học khác vẫn chưa có tiếng nói chung trong khái niệm về chết và
nổi lên hai khuynh hướng khác nhau. Một là, khi thây xác con người tan rữa thì
đồng thời tâm hồn cũng không tồn tại. Hai là, sau khi chết thây xác tan rữa,
tâm hồn vẫn tồn tại, nhưng chuyển sang một dạng khác là tâm linh.
Về khuynh hướng thứ
hai, Phật Giáo đã đề cập tới từ trước công nguyên và mấy trăm năm gần đây khoa
học tâm linh cũng đưa ra được nhiều minh chứng ở lĩnh vực này. Bằng thái độ
khách quan đối với khoa học, cái gì chưa khẳng định thì không phủ định, chúng
ta hãy coi đây là giả thuyết để cùng tiếp tục nghiên cứu.
Theo Phật Giáo và tâm
linh học thế giới âm gian có bẩy tầng. Cao nhất là Thiên Giới (còn gọi Niết
Bàn) và thấp nhất là Địa Ngục. Ở giữa có Thiên Thương, Tinh Giới, U Minh Giới...
Thiên Giới là thế giới hạnh phúc dành cho những tâm linh đã giác ngộ hoàn toàn
chỉ có chính thiện, không còn tà ác, chỉ có phước đức, không còn tội lỗi. Đạt
Thiên Giới, tâm linh thoát khỏi vĩnh viễn luân hồi bể khổ sống chết. Đó cũng
chính là cái đích cuối cùng tu luyện qua mọi kiếp. Địa Ngục là nơi tăm tối đáng
sợ nhất của âm gian với tất cả sự khủng khiếp để hành hạ và đầy đoạ những tâm
linh mà khi sống trên dương gian lòng đầy tham vọng, thù hận, nham hiểm, tàn
bạo, phước đức quá nhỏ mà tội lỗi quá lớn. Riêng Địa Ngục cũng có ba tầng với
các hình thức hành hạ đầy đọa khác nhau để trừng phạt những tâm linh phạm mức
độ tội lỗi nặng nhẹ khác nhau. Những kẻ bị đầy dưới tầng cuối cùng Địa Ngục thì
khó có hy vọng thoát ra khỏi để được luân hồi, mà dẫu có cũng chỉ làm kiếp sâu
bọ hoặc súc vật, vĩnh viễn không bao giờ tới được Niết Bàn. Những tâm linh khác
căn cứ vào mức độ tu luyện, vào phước đức và tội lỗi trên dương gian mà được
trú ngụ ở tầng âm gian thích hợp để chờ được luân hồi theo sự chi phối của nhân
quả. Nếu phước đức lớn, tội lỗi nhỏ thì sẽ tái sinh kiếp sau được sung sướng,
danh giá và ngược lại. Kết thúc cuộc sống chốn dương gian không được âm gian
tiếp nhận ngay, mà mọi tâm linh đều phải qua những thủ tục cần thiết. Đó là bẩy
lần, mỗi lần cách nhau bẩy ngày, tâm linh tự khai báo những thông tin về bản
thân, đặc biệt phải khai chi tiết về mọi suy nghĩ và hành vi thiện, ác đã làm
trên dương gian, đồng thời chịu sự thẩm vấn của các quan cai quản ở âm gian.
Nội dung, hình thức, phương thức khai báo và thẩm vấn sau mỗi lần càng nhiều
hơn, cụ thể hơn, chi tiết hơn và chính xác hơn. Cho đến ngày thứ 49 sau khi
chết, lần thẩm vấn cuối cùng được thực hiện tại điện Diêm Vương do đại diện của
Thái Sơn Vương chủ trì. Ở đây có đặt một chiếc gương lớn gọi là Gương nghiệp
chướng. Tâm linh được đưa tới trước gương và lập tức bao nhiêu việc làm thiện,
ác khi còn sống trên dương gian đều lần lượt hiện lên với mọi chi tiết, hình
ảnh, địa điểm, thời gian, không gian rất cụ thể, khiến bất kỳ tâm linh nào dù giảo
hoạt đến đâu, những lần khai báo và thẩm vấn trước có tinh vi dối trá thế nào
đều bị phanh phui ra hết. Trên cơ sở đó Diêm Vương sẽ xem xét tính trung thực
và cân nhắc giữa phước đức với tội lỗi để quyết định cho tâm linh ấy được ở
tầng âm gian nào. 49 ngày tâm linh trong trạng thái du hồn chờ đợi và thi hành
việc khai báo, thẩm vấn, chưa được chấp nhận chính thức sang thế giới âm gian
nên thường quyến luyến với người thân chốn dương gian, hiện về trong giấc mơ,
trong bữa ăn, trong cả những sinh hoạt của người thân và người thân cũng thế,
đều đặn cúng cơm, khấn cầu, trò chuyện với tâm linh quá cố như khi họ còn sống.
Sau 49 ngày khi tâm linh được tiếp nhận, được biết mình ở tầng âm gian nào, nỗi
nhớ dương gian mới nguôi ngoai, dần dần quen và chuyển hẳn sang thế giới âm
gian. Trên dương gian người thân cũng thế, nhớ thương dịu đi, cuộc sống ổn định
trở lại. Người ta sẽ chỉ dành tình cảm với thân nhân quá cố vào những ngày giỗ.
Ngày chết gọi là ngày giỗ. Người phương Tây trọng ngày sinh, làm rất rôm rả,
bánh trái, đèn nến, âm nhạc, ca hát, nhảy múa cùng những lời tốt đẹp ca ngợi
chủ nhân. Người phương Đông coi trọng ngày giỗ nhưng không ồn ào phô trương. Việc
đánh giá khẳng định người quá cố lấy phước đức và tội lỗi khi họ còn sống làm
căn cứ. Như thế rất khách quan và chính xác bởi cuộc đời họ đã kết thúc. Văn
hoá phương Đông quả là sâu sắc. Có lẽ vì thế mà khi đọc sách của các tác giả
phương Tây ta hiểu được nhiều về học thuyết và triết lý, nhưng không thấm sâu
đạo lý như đọc sách các tác giả phương Đông.
Trừ những tâm linh đắc
pháp đạt Niết Bàn, hoặc những tâm linh bị đầy dưới Địa Ngục, còn lại đều được xét,
sớm hay muộn cũng luân hồi tái sinh có khi trải qua hàng ngàn, hàng vạn kiếp.
Nếu phước đức lớn, tội lỗi nhỏ thì kiếp tái sinh sau sẽ tốt hơn kiếp trước. Đối
với mỗi người, kiếp trước và các kiếp trước của mình là gì? Kiếp sau và các
kiếp sau của mình là gì? Luôn là điều bí mật. Kiếp này mình với vợ mình, với
các con mình gắn bó nhau. Nhưng kiếp sau vợ mình, các con mình gắn bó với ai? Vẫn
là điều bí mật. Chính cái điều bí mật ấy mới làm cho cuộc sống hấp dẫn. Nếu
biết trước thì sẽ vô cùng buồn tẻ. Có điều dù bí mật đó là gì thì việc tu thân,
gieo quả thiện chứ không gieo quả ác, tích phước đức, giảm tội lỗi vẫn là việc
phải làm. Bởi Luật nhân quả vô cùng khắc nghiệt, dù ở dương gian hay âm gian
đều thế.
Chết không phải là hết,
cũng chẳng có gì phức tạp, chẳng có gì đáng sợ chỉ là chuyển từ dạng tồn tại
này sang dạng tồn tại khác, tạm xa người thân đang sống nơi dương gian để gặp
lại người thân đã quá cố chốn âm gian. Biết về chết ta sẽ không sợ chết. Cái
làm ta sợ thường là những cái ta chưa biết. Bơi qua đoạn sông lạ - sợ, bởi
không biết ở đấy có nước xoáy, có cá sấu không? Qua khu rừng lạ - sợ, bởi không
biết có thú dữ không? Đi đêm sợ ma, bởi không biết ma thế nào? Lần đầu bước vào
nhà người lạ thấy băn khoăn lo ngại, bởi không biết chủ nhân ra sao? ... Nhưng
khi đã biết sẽ hết ngại, hết sợ, kể cả cái chết. Với mỗi kiếp trong luân hồi
thì chỉ một lần sống và một lần chết. Sống phải học thì chết cũng phải học.
Biết sống sao cho có nghĩa và cũng phải biết chết sao cho có nghĩa, nhất là sự
sống chết của nhân cách. Lịch sử đã ghi lại không ít cái chết mà từ đó hậu thế có
thể rút ra nhiều bài học sâu sắc. Lý Tư là nhà mưu lược nổi tiếng có nhiều công
lớn phò tá giúp Tần Thuỷ Hoàng thống nhất thiên hạ đưa đất nước tới cường
thịnh. Tội lớn của Lý Tư là bản chất hẹp hòi đố kỵ, ghen ghét Hàn Phi, bạn học
với mình nhưng tài đức hơn hẳn. Bày mưu hãm hại Hàn Phi, xúi giục nhà vua đốt
sách chôn nhà nho huỷ hoại nền văn hoá Trung Hoa. Tham vọng lớn khiến ông ta
điên cuồng, phản bội cả chủ là Tần Thuỷ Hoàng vào hùa với Triệu Cao và Hồ Hợi
truyền thánh chỉ giả khiến Phù Tô phải chết. Hồ Hợi nối ngôi tàn bạo phá cơ
nghiệp nhà Tần. Về sau chính Triệu Cao và Hồ Hợi cấu kết với nhau khép Lý Tư
tội làm phản phải tru di ba họ. Lý Tư bị chặt làm đôi bêu thây giữa chợ Hàm
Dương. Cái chết của Lý Tư là sự báo ứng đối với một người có tài mà thất đức,
tham lam, vụ lợi và hèn hạ.
Đổng Trác là tướng đại
gian tặc cuối triều Đông Hán, tàn ác như hung thần. Dùng cực hình dã man: móc
mắt, bỏ vạc dầu, chặt chân tay, thiêu, luộc sống đối với ai dám chống lại y.
Cuối cùng bị Vương Doãn, một trung thần dùng Điêu Thuyền làm mỹ nhân kế và mượn
tay Lã Bố giết chết. Cái chết của Đổng Trác cũng là sự báo ứng đối với những
hành động bất nhân thất đức và mê muội vì gái của hắn.
Hạng Vũ là tướng tài,
võ nghệ cao cường sức địch muôn người, cùng Lưu Bang nổi lên chống lại nhà Tần.
Lưu Bang tài lực đều yếu hơn, nhưng nhờ có chí lại biết dùng người giỏi hơn
mình như Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín mà lấy được thiên hạ. Trái lại Hạng Vũ
do tự phụ, chủ quan, đặc biệt không biết dùng người. Có Phạm Tăng là quân sư
tài giỏi mà cư xử bất nghĩa đến nỗi Phạm Tăng bỏ đi, rồi uất quá mà chết. Mất
Phạm Tăng chỉ sau một trận huyết chiến với Lưu Bang bị đại bại khiến Hạng Vũ
phải tự tử. Cái chết của Hạng Vũ là do chủ quan, tự phụ và không biết dùng
người.
Quan Vân Trường trí
dũng siêu phàm, lòng trung sắt đá. Chỉ vì Lục Tốn gửi thư tôn Quan Vân Trường
như sư phụ sánh ngang Hàn Tín nhà Hán làm Vân Trường say sưa với lời phỉnh nịnh
ấy mà mất cảnh giác, chủ quan, mắc mưu Lục Tốn vô danh bất tài đến nỗi bị chặt
đầu. Cái chết của Quan Vân Trường là hậu quả của tính thích phỉnh nịnh.
Văn Chủng và Phạm Lãi
đều là tướng tài và rất trung thành với Việt vương Câu Tiễn, cùng nếm trải biết
bao vinh nhục để giúp Câu Tiễn thắng Ngô Phù Sai. Giành lại giang sơn rồi, Phạm
Lãi biết Câu Tiễn sẽ diệt trung thần, ông từ quan sang Tề lập nghiệp, viết thư
khuyên Văn Chủng đi với mình. Nhưng Văn Chủng không tin Câu Tiễn lại có thể
vong ân bội nghĩa với những người có công khai quốc như mình, bỏ ngoài tai lời
khuyên của Phạm Lãi. Quả nhiên đúng như Phạm Lãi dự đoán, Câu Tiễn vu Văn Chủng
mưu phản và giết chết. Cái chết của Văn Chủng là kết cục của kẻ ngu tín, trung
thành mù quáng, thiển cận không hiểu người, hiểu đời.
Nhưng cũng có cái chết
để lại tiếng thơm muôn thuở như Thương Ưởng. Ông là Tể tướng nước Tần đời Tần
Hiếu Công, một người có tầm nhìn xa thấy rộng, ứng dụng phép biện chứng của
Kinh Dịch để phân tích thời cuộc giúp vua chủ trương thi hành những cải cách
lớn: hạn nô, hạn điền đối với chủ nô. Khuyến khích khai hoang phát triển nông
nghiệp, thương mại, thủ công nghiệp. Cho tự do mua bán đất đai và nhà nước thu
thuế. Điều tra dân số để biết lực lượng lao động và khả năng điều động quân
đội. Con trai đến tuổi trưởng thành phải tách hộ độc lập. Tăng cường tập quyền
trung ương, thành lập và phân cấp quận huyện. Thống nhất văn tự, đo lường. Rời
kinh đô về Hàm Dương để thuận tiện cho việc giữ nước và dựng nước. Trị quốc
bằng luật. Thưởng phạt nghiêm minh. Có lần Thái tử phạm pháp, Thương Ưởng xử
tội cắt mũi phó tướng của Thái tử và thích chữ lên mặt thày dạy Thái tử. Thái
tử rất căm. Cải cách của ông tạo đà phát triển cho đất nước nhưng bị tầng lớp
chủ nô và quý tộc quyết liệt chống đối. Khi vua băng hà, Thái tử lên ngôi hiệu
là Tần Huệ Vương đã cấu kết với bọn chủ nô, quý tộc lập mưu vu tội trả thù ông.
Thương Ưởng bị ngũ mã phanh thây. Có thể nói Thương Ưởng sống cho sự nghiệp
cách tân chấn hưng đất nước và ông cũng chết cho sự nghiệp cao cả đó. Ông chết
thảm bởi bọn đê hèn, song đó là chết vinh để lại tên tuổi lừng lẫy và tiếng
vang muôn thuở. Ở đời kẻ thắng đâu phải vinh và người thua đâu phải nhục. Vấn
đề là thắng vì cái gì và bại vì cái gì cũng như sống thế nào và chết thế nào.
÷
Sống - Chết là vấn đề của muôn thuở. Mỗi kiếp làm người chỉ sống một lần và
chết một lần. Hiểu ý nghĩa cuộc sống sẽ sống có ý nghĩa. Hiểu được ý nghĩa của
cái chết sẽ chết có ý nghĩa. Cuộc sống hữu hạn và chết không phải là hết. Đó là
sự chuyển hoá từ dạng tồn tại này sang dạng tồn tại khác theo luân hồi do nhân
quả chi phối. Cái quý nhất của con người là Tâm thiện. Ở dương gian thì làm
theo luật, sống theo đạo lo giữ cho thân khoẻ, tâm nhàn. Xuống âm gian chỉ được
mang theo hai thứ phước đức và tội lỗi. Luật nhân quả vô cùng khắc nghiệt; gieo
thiện gặt phúc, gieo ác gánh họa.
Sống thế, mà chết cũng
vậy. Đó là điều muôn thuở.
Hà Nội, đêm 27/10/2008
Trước khi chết người ta sẽ thấy gì???