“Bệnh ì,
lười học hỏi và quan liêu trong nghề nghiệp đã hạn chế tôi quá nhiều trong hành
trình tìm việc phù hợp ở xứ người. Ở đây, cơ may hoàn toàn không mỉm cười với
kẻ bất tài, lười biếng”.
Tôi, một phụ
nữ vừa bước vào tuổi ba mươi lăm, khăn gói lên đường du học sau cuộc chia tay
đầy nước mắt với chồng và hai đứa con. Chuyến bay dài tám tiếng của Hãng Hàng
không Việt Nam đưa tôi đến
với Melbourne, thành phố lớn thứ hai sau Sydney của đất nước Úc
rộng lớn và xinh đẹp.
Melbourne vào thu thật lãng mạn và trữ tình.
Những tòa nhà với kiến trúc Victoria
ngập tràn hoa hồng, lãng đãng phủ đầy dây thường xuân. Muôn ngàn lá đỏ, lá vàng
xào xạc dệt lên sắc xanh mượt mà của những thảm cỏ trải dài theo các đại lộ.
Xe của trường
đưa tôi và ba cô bạn khác đi qua trung tâm thành phố. Tôi như choáng ngợp trước
vẻ đẹp hiện đại của các tòa cao ốc của Melbourne.
Xen lẫn trong sự kiêu hãnh của một thành phố phát triển, đâu đó chấm phá nét
trầm mặc của những tháp nhà thờ cổ kính. Melbourne đã được tạp chí “The
Economist” bình chọn là “Thành phố dễ sống nhất thế giới” dựa vào các tiêu
chí văn hóa, thời tiết, giá cả sinh hoạt và điều kiện xã hội.
Tôi bận rộn
việc học tiếng Anh của mình tại campus Clayton, trường Đại học Monash, một
trong tám trường đại học hàng đầu của nước Úc. Clayton cách trung tâm thành phố
khoảng 45 phút đi tàu điện. Tôi được nghỉ hai tháng sau khi kết thúc khóa học
bồi dưỡng tiếng Anh. Melbourne
lúc này bắt đầu vào đông. Cảm thấy chán vì mình đã khám phá gần hết thành phố
xinh đẹp này, tôi lao vào cuộc hành trình mới để thử sức mình ở đất lạ xứ
người.
Và thế là…
tôi đi làm ở “Tây”.
Nông trại
“Tây” chỉ là
cách ví von của người Việt Nam
nếu một ai đó đi ra nước ngoài. Sau nhiều ngày tìm việc trên mạng, tôi đã được
một farm (nông trại) nho ở vùng Tongala, cách Melbourne 300 km nhận làm.
Người chủ
farm nho là một người Úc gốc Việt. Chị có giọng nói nhỏ nhẹ, dễ thương đặc
trưng của người Nam Bộ. Công việc chính của tôi ở farm chủ yếu là cắt cành nho.
Một luống nho khoảng 5 cây. Một ngày trung bình nếu cắt được hai luống nho, tôi
sẽ được trả 100 đô-la Úc.
Chị chủ nông
trại bảo tôi việc nhẹ nhàng và đơn giản, chỉ cần siêng năng là có thể kiếm được
1.400 đô trong hai tuần. Phát cuồng vì nghĩ mình sắp kiếm được món hời, tôi rủ
thêm ba cô bạn ở cùng đi làm farm. Cả bọn thích thú chuẩn bị hành lý lên đường.
Đúng 10 giờ
vào một ngày Chủ nhật đẹp trời, chúng tôi lên Southern Cross, ga trung chuyển
giữa các tuyến tàu qua CBD của Melbourne để bắt chuyến tàu Vlines về Tongala.
Sau hơn bốn tiếng đồng hồ lắc lư trên tàu, chúng tôi được vợ chồng chị chủ ra tận
ga đón về farm. Đường về farm đi ngang qua các cánh rừng vắng vẻ, không thấy
bóng dáng người, chỉ thấy những chú căng-gu-ru ngơ ngác nhảy ngang qua đường.
Khác với
mường tượng của chúng tôi về một nơi ở thôn dã hiền hòa xinh đẹp như chúng tôi
đã từng xem trong bộ phim “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên”, nơi mà chúng
tôi sẽ ở trong suốt hai tuần trông tạm bợ, tuềnh toàng và nhếch nhác như các
lều đào vàng ở vùng Ballarat.
Phải có chừng
hơn 40 người đến từ các nước khác nhau của Châu Á để làm farm như chúng tôi.
Bốn chúng tôi cùng ở trong một căn phòng nhỏ hẹp mà mỗi ngày mỗi đứa phải trả
10 đồng. Không có nước máy sinh hoạt ngoại trừ nước mưa và các ao hồ nhỏ hẹp,
vàng quánh. Bốn chúng tôi ngao ngán nhìn nhau, tự hỏi không biết mình đang làm
gì ở cái chốn khỉ ho cò gáy này.
Một đêm ngủ
say như chết sau chuyến đi dài. Người quản lý farm gọi chúng tôi dậy từ lúc 5
giờ sáng. Mắt còn cay xè vì ngái ngủ, chúng tôi cố gắng chuẩn bị thức ăn của
ngày hôm trước để chuẩn bị ra farm. Lụ xụ trong chiếc áo phao dày xịch, tôi vội
vàng xỏ chân vào đôi bốt và bước ra ngoài. Tiết trời lạnh giá khiến tôi ù hết
cả tai, mắt cay xé. Người quản lý bảo 40 người chúng tôi sẽ chia làm hai nhóm.
Mỗi nhóm lên hai xe để đi ra farm nho.
Đường lên
farm nho vắng rợn người, chỉ có những tiếng kêu buồn thảm thiết của những chú
quạ. Đó đây xuất hiện những dấu chân không biết của loài thú nào trông kỳ dị và
bí hiểm. Tôi liếc mắt nhìn ba cô bạn của mình.
Kể từ khi đến
nơi ở cho đến bây giờ, chúng tôi vốn là những đứa lắm lời, nhiều chuyện không
biết tự tắt tiếng khi nào. Chẳng ai thèm nói với ai một lời. Tôi đọc được trong
ánh mắt của ba cô bạn sự hoang mang và lo lắng. Cố gắng mở miệng để tếu táo đùa
một câu cho không khí bớt phần ảm đạm nhưng hơi lạnh thọc sâu vào cổ họng khiến
lưỡi tôi cứng đơ.
Từ nơi ở lên
farm nho mất một tiếng đồng hồ. Đến nơi, mỗi chúng tôi được giao một chiếc kéo
để cắt cành nho. Tôi bắt đầu công việc đầu tiên của mình từ khi đặt chân lên
nước Úc với hai luống nho dài.
Đưa kéo cắt
một dây nho đầu tiên, tôi lấy hết sức bình sinh mới cắt được. Thân nho tuy nhỏ,
mảnh nhưng lại rất dai. Rồi nhát thứ hai, ba, tư rồi thứ năm, hai tay tôi tê
cứng, lòng bàn tay sưng rộp lên. Cắt mãi vẫn chưa hết được một cây nho, tôi
thảng thốt nhìn sang cô bạn “đồng nghiệp” người Nepal ở bên cạnh. Có vẻ như cô cũng
mới vào làm giống tôi. Nhìn cô bặm môi bặm miệng cố cắt đứt thân nho trong cái
giá lạnh tê người, tôi chợt nhếch miệng cười. Một nụ cười khan, khô và cay
đắng.
Tôi là một
sinh viên cao học, được học bổng do chính phủ Úc và Việt Nam hợp tác tài
trợ. Lương một tháng của tôi dư sức để ăn, ở và chi tiêu ở Melbourne. Tại sao lại gồng mình đến nơi này?
Tôi vừa rủa thầm sự ngu ngốc, dại dột của mình, vừa miệt mài làm theo quán tính
cho đến khi họng khô rốc, bụng đói cồn cào.
Chúng tôi í
ới gọi nhau ăn trưa. Không có lò vi sóng để hâm thức ăn, chúng tôi trệu trạo
nhai lát bánh mì kẹp thịt xông khói cứng đơ, vất vưởng mùi ôi thiu của ngày hôm
trước. Không khí nặng nề bao trùm. Vẫn không ai mở miêng nói được câu nào.
Chúng tôi uể oải kết thúc bữa ăn với chai nước mưa mà tôi nhanh tay lấy được từ
chỗ trú chân tối hôm qua.
Bìa rừng là nơi
chúng tôi thường đến để giải quyết vệ sinh cá nhân trong suốt hai tuần làm
farm. Nếu như ở Melbourne, nhà vệ sinh công cộng nhan nhản khắp nơi và không hề
thấy bóng dáng ai tè bậy ngoài đường, thì ở trên farm, chúng tôi trở lại với
thói quen như khi mình đang ở Việt nam. Mấy cô bạn người Nepal khinh
khỉnh bảo chúng tôi cứ tè bậy như họ ngay ở luống nho mình làm. Đi ra bìa rừng
vừa mất thời gian, vừa nguy hiểm vì lỡ có thú dữ tấn công.
Một ngày làm
việc nặng nề, chậm chạp trôi qua. Tôi chỉ cắt được một luống nho. Không hoàn
thành chỉ tiêu, tôi chỉ nhận được 50 đồng. Các cô bạn của tôi cũng thế.
Buổi tối, sau
khi tắm rửa trong cái giá lạnh -10C với thùng nước vàng quạch, chúng tôi lại
ngủ với nhau trong căn phòng chật chội. Hơi lạnh từ nền nhà tản vào lưng khiến tôi
lạnh thấu xương, không tài nào chợp mắt được. Tôi ứa nước mắt. Nhiều trạng thái
cảm xúc pha trộn. Tôi nhớ nhà, nhớ hai con. Nhớ hai đôi mắt long lanh như sao,
nhớ giọng nói nũng nịu yêu yêu đến lạ. Nếu như bây giờ đang ở Việt Nam, hẳn tôi
đang nằm trên một đống chăn nệm thơm tho trong căn phòng ấm cúng cùng với chồng
và hai con.
Hai ba ngày một
lần, chúng tôi được vợ chồng chủ farm chở ra chợ mua thức ăn. Nói là chợ nhưng
nó chẳng khác chợ quê ở Việt Nam
là bao lăm. Thức ăn đắt khủng khiếp vì tốn công vận chuyển. Muốn ăn ngon và đầy
đủ chất, chúng tôi phải tiêu mất 10 đồng một ngày mỗi đứa. Dù xót tiền nhưng
cũng chẵng có cách nào hơn. Một tuần lại trôi qua với ngày làm việc dài đăng
đẵng, với những bữa ăn lạnh ngắt, với bàn tay phồng rộp và thân xác mỏi nhừ. Một
cuộc sống không internet, không ti vi và không di động.
Tôi tình cờ
gặp một người phụ nữ trạc tuổi mẹ chồng tôi 70 tuổi, bà Hoa ở farm nho. Quê bà
Hoa ở Vĩnh Long. Bà qua đây đã vài chục năm và cũng làm farm đươc chừng đó thời
gian. Không biết ngoại ngữ, không có bằng cấp, chứng chỉ, bà sống lạc lõng giữa
cộng đồng người nói tiếng Anh ở Melbourne.
Thất nghiệp, bà nhận được tiền trợ cấp xã hội hàng tháng của nước Úc để sinh
sống qua ngày.
Bà dạy cho
tôi một số mẹo vặt để cắt dây nho nhanh hơn và làm thế nào để không bị đau tay.
Trông người bà nhỏ bé, gày yếu như thế nhưng khi bắt tay vào việc mới thấy bà
đã được tôi luyện như thế nào trong môi trường quá ư khắc nghiệt này. Bà có thể
cắt từ 3 đến 4 luống nho trong một ngày trong khi tôi cố gắng lắm mới cắt được
một luống rưỡi.
Nhà hàng
Thời tiết ở Melbourne chẳng dễ chịu
chút nào. Nắng đấy, mưa đấy. Lạnh đấy, nóng đấy. Đồng bóng như một bà góa đang
vào thời tiền mãn kinh.
Tuần thứ hai
của chúng tôi bắt đầu với cái nắng hanh gắt. Phơi mặt cả ngày giữa cái nắng và
gió, mặt chúng tôi sạm hẵn đi. Của đáng tội, tiền làm ra không đủ để mua mỹ
phẩm bù lại cho làn da xuống cấp. Một lần nhớ đời! Kết thúc vụ làm farm, sau
khi trừ chi phí đi lại, ăn uống và ở hàng ngày, chúng tôi nhận được gần 600 Úc
kim. Khi chuyến tàu Vlines đưa chúng tôi trở lại ga Southern Cross, cả bọn nhìn
nhau mắt rưng rưng. Dường như đang trở lại cuộc sống thân quen mà mình đã đánh
mất từ lâu lắm. Khoan khoái mỉm cười. Lại nhìn thấy người rồi!
Cái nết đánh chết
không chừa. Tôi vẫn không bỏ cái thói ham công tiếc việc của mình. Lại sục sao
các trang mạng tìm việc. Tuy nhiên lần này may mắn hơn, tôi nhận được lời đề
nghị thử việc của một nhà hàng Thai Takeaway bận rộn ở Elsternwick. Công việc
chính của tôi sẽ là bồi bàn. Tôi nói chuyện qua điện thoại với ông chủ nhà hàng
là tôi không có kinh nghiệm về phục vụ bàn nhưng ông khuyến khích tôi là cứ thử
xem một lần cho biết.
Y hẹn, tôi
đến đấy vào buổi tối thứ Sáu. Do đến sớm hơn giờ mở cửa của nhà hàng, nên tôi
được ông bà chủ đón tiếp tận tình, niềm nở. John, ông chủ nhà hàng là người Úc
đáng mến và dễ tính như bao người Úc khác. Ông giải thích cặn kẽ công việc của
tôi. Chủ yếu là nghe đặt hàng qua điện thoại, ghi lại số liên lạc, địa chỉ nhà,
món ăn, hình thức thanh toán của khách hàng.
Thế nhưng khi
bắt tay vào việc mới thấy nó hoàn toàn không đơn giản chút nào. Làm sao tôi có
thể nhớ một lần cả hàng trăm món ăn của Thái với các tên gọi khác nhau ngay
trong ngày đầu tiên. Lại còn phải hỏi khách hàng thích cay nhiều, cay ít và
không cay, có nước dừa hay không có nước dừa... Tôi thử vai của ông chủ nhà
hàng John nghe điện thoại khách hàng. Do căng thẵng, tôi không thể nghe đúng
địa chỉ nhà và tên đường của khách hàng. Có lẽ do tôi chưa biết gì về vùng này
nên không quen đường. Thậm chí tôi còn ghi sai số thẻ Master Card của khách
hàng.
Rồi các món
ăn, cả một mớ hỗn độn mà tôi không tài nào nhớ nổi. Bà chủ nhà hàng người Thái
có dáng người đậm, mặt bự phấn. Bà tỏ ra rất khó chịu khi tôi nghe sai thông
tin. Lần đầu tiên tôi cảm thấy mất tự tin và nghi ngờ khả năng tiếng Anh của
mình. Qua Úc cả năm trời nhưng tại sao vẫn không nghe được dù chỉ là một cuộc
điện thoại. Lại nguyền rủa mình, đôi khi tôi suy nghĩ đơn giản là mình có thể làm
được mọi việc nhưng thực tế ở nước Úc, người ta làm việc rất chuyên nghiệp và
bài bản. Một người tay ngang khó có thể nhận được việc nếu không có kinh nghiệm
và được đào tạo đúng ngành, đúng nghề.
Hết giờ làm
việc, John gói cho tôi phần ăn tối. Ông trả công 4 giờ làm việc vớ vẩn của tôi
60 đồng và hẹn chủ sáng Chủ nhật sẽ gọi lại. Tôi không biết hẹn gọi lại có phải
là cách từ chối khéo léo của người Úc hay không nhưng mỗi khi tôi nghe ai đó ở
Úc nói sẽ gọi lại có nghĩa là mình sẽ không được nhận việc.
Cổ cồn
trắng
Chán với các
công việc thời vụ, tay chân, tôi cố đăng ký vào một công việc phù hợp với kinh
nghiệm ở Việt Nam và phù hợp
với ngành mình đang học ở Melbourne.
Tình cờ tôi
nhận được mẫu quảng cảo của Career One trong hộp mail của mình. Một công ty
truyền thông tư nhân, Loungcraft ở Dandenong cần tuyển biên tập viên truyền
hình. Tôi vội vã mông má đơn xin làm việc và CV của mình cùng với người tham
khảo là hai ông giáo sư tiến sĩ đang trực tiếp dạy tôi ở trường Đại học Monash.
Một tuần sau tôi nhận được thư mời phỏng vấn. Vì công ty Loungecraft chỉ cần
tuyển người làm bán thời gian nên họ không quan tâm việc tôi là người bản xứ
hay định cư lâu dài hay không. Vội vàng quơ mấy cuốn sách ở thư viện, tôi mang
về nhà nghiến ngấu đọc lấy đọc để chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn và làm bài kiểm
tra.
Tôi bước vào
bài kiểm tra kiến thức bằng việc dựng một trailer trên Macbook với phần mềm
Final Cut Pro. Cùng thi với tôi có khoảng 10 ứng viên đến từ các nước khác
nhau. Phân nửa là các bạn người bản xứ. Hy vọng tràn trề là mình sẽ nhận được
việc này vì mình quá kinh nghiệm và được đào tạo bài bản, tôi cố gắng thể hiện
hết tất cả những gì có thể. Trong số các trailer, tôi và một bạn ở địa phương
được đánh giá cao về ý tưởng, kỹ thuật dựng và xử lý hiệu ứng hình ảnh. Tôi cố
gắng thuyết trình về bài tập của mình một cách súc tích và hiệu quả. May mắn
tôi được công ty đánh giá cao và lọt tiếp vào vòng hai.
Bước vào phần
thi thứ hai với In Design, một phần mềm chuyên dụng dành cho tạp chí. Tôi vẫn
đang còn học phần mềm này trong khóa học của mình. Loay hoay như gà mắc tóc vì
không rành về lĩnh vực này, bài kiểm tra của tôi bộc lộ hết những điểm yếu của
một người không chuyên. Vẫn là anh bạn người bản xứ và hai ứng viên khác đến từ
Ấn Độ hoàn thành bài tập của họ một cách xuất sắc. Người quản lý của
Loungecraft nói với tôi vì đây là công việc cần người gấp và trả lương nên họ
không thể chờ đợi và đào tạo.
Trên chuyến
tàu về ga Flinder street,
tôi suy nghĩ rất nhiều. Có lẽ nếu người Úc hoặc các nước khác đến, họ chỉ cần
nỗ lực 100%. Riêng tôi phải nỗ lực đến 200% hoặc hơn thế thì may ra mới kiếm được
công việc “cổ cồn trắng” ở Melbourne.
Lúc còn ở
Việt Nam,
tôi sống trong ảo tưởng rằng mình là người có kiến thức và giỏi giang. Nhưng
thực tế từ khi qua Úc cho đến bây giờ, tôi vỡ ra nhiều điều. Nhược điểm lớn
nhất của tôi và phần lớn du học sinh Việt nam tại Úc đó là khả năng giao tiếp
tiếng Anh. Chúng ta kém nhiều so với các bạn đến từ nước khác ở Châu Á, thậm
chí còn thua các nước Đông Nam Á. Người Việt hay chê Trung Quốc nói tiếng Anh
kém nhưng các sinh viên Trung Quốc mà tôi biết nói tiếng Anh tốt không thua gì
người bản ngữ. Họ rất siêng năng và có tư duy nhạy bén.
Tôi cố vớt
vát bằng cách xin thực tập ở đó một thời gian để lấy kinh nghiệm và học hỏi.
Chỉ sau một thời gian, tôi phải bỏ dở công việc thực tập vì chỉ tính việc đi
lại từ nơi tôi ở đến Dandenong và ngược lại ngốn mất của tôi 5 giờ đồng hồ vàng
ngọc. Đành lỡ hẹn chờ dịp khác tốt hơn.
Gạ tình,
lừa tiền trên Gumtree
Mặc dù cô bạn
nhỏ của tôi nhiều lần cảnh báo về việc gạ tình lừa tiền trên Gumtree nhưng
tôi vẫn kiên trì tìm việc ở trang web này. Thực ra tôi cũng muốn kiếm thêm chút
tiền nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hòa mình vào cuộc sống của Melbourne để khám phá nó.
Kích vào mục
tìm người giúp việc (cleaner), tôi đọc được mẫu quảng cáo cần tìm người cho một
người đàn ông độc thân bận bịu ở khu South Melbourne.
Việc làm 3 giờ một ngày, tuần làm một lần. Tiền công 12 đồng một giờ kiêm thêm
chi phí đi lại. Nghe cũng ổn, tôi viết mail cho người đàn ông này. Ông ta,
Errold hồi âm và hẹn gặp tại nhà để chuẩn bị cho công việc. Đó là một căn phòng
bừa bộn và cực kỳ luộm thuộm. Nếu như dọn dẹp sạch sẽ và gọn gàng chắc phải mất
5 tiếng đồng hồ. Cuộc gặp chóng vánh trôi qua, tôi nhanh chóng được ông ta ưu
ái cho nhận việc.
Ngày đầu
tiên, ngày thứ hai rồi ngày thứ ba trôi qua, Errold ở nhà nói chuyện với tôi.
Errold bảo do công việc ngập đầu ngập óc cho nên đến ngần này tuổi ông vẫn chưa
kết hôn. Ông ấy bảo đã vài lần qua Việt Nam, thích các món ăn Việt và rất
ngưỡng mộ phụ nữ Việt. Rồi, Errold chùng giọng bảo tôi có việc muốn nói. Tim tôi
đập loạn xạ, tôi sợ có việc không hay sẽ xảy ra với mình trong căn hộ này. “Tôi
không muốn làm em hoảng sợ nhưng thú thật là tôi rất thích em. Tôi muốn em là
người phụ nữ của tôi ở Úc. Tôi biết em có gia đình và vì thế em hãy giữ bí mật
về điều này. Tôi sẽ cung cấp tiền cho em hàng ngày để ăn ở và đi lại”,
Errold nói.
“Không bao giờ”.
tôi mím môi. “Tôi không cần ai nuôi. Tôi có tiền. Tôi chỉ đi làm cho vui. Tôi
không muốn phản bội chồng tôi.” Tôi định nói với Errold là nếu ông ấy đi quá xa
tôi sẽ báo với cảnh sát vì tội quấy rối tình dục. Công việc cleaner của tôi
nhanh chóng kết thúc chỉ vỏn vẹn trong ba ngày. Nhưng tôi vẫn tiếp tục tìm việc
trên Gumtree. Tôi không hiểu vì sao Gumtree lại có sức hấp dẫn với tôi đến thế.
Một mẫu quảng
cáo khá kêu đập vào mắt tôi. Một gia đình có con nhỏ đang tìm người giúp việc
một ngày một tuần với giá 38 đồng một giờ. Làm phép tính nhanh, một ngày tôi có
thể kiếm được 304 đồng, cao hơn lương nhân viên công sở, nếu được gia đình kia
đồng ý. Thư xin việc nhanh chóng được gởi đi và cũng chóng nhận được hồi âm.
Trong thư gia đình ấy bảo là họ rất lưu ý đến thư xin việc của tôi và đề nghị
tôi gửi CV.
Tôi mừng rỡ
khoe với cô bạn nhỏ cùng phòng cơ may của mình khi gia đình kia báo là họ sẽ nhận
tôi làm người giúp việc. Họ bảo tôi rằng em họ của gia đình sẽ gọi cho tôi đến
dọn dẹp trước ở căn hộ của họ trên đường Lonsdale một tuần nữa. Họ sẽ về nước
vào giữa tháng Tư để sinh con. Vì phải trả tiền hàng tuần cho tôi qua tài khoản
ngân hàng nên họ yêu cầu tôi gởi cho họ thông tin chi tiết về tài khoản ngân
hàng. Họ cũng tha thiết muốn có bức hình của tôi để họ có thể biết mặt ai sắp
làm việc cho họ.
Khó tả nổi niềm
vui sướng của tôi khi đọc thư. Nếu được việc, tôi sẽ kiếm 1.200 Úc kim một
tháng. Việc nhẹ, lương cao. Thỏa sức ăn chơi nhảy múa. Chia sẻ với cô bạn cùng
phòng liệu có nên cung cấp chi tiết tài khoản của mình cho gia đình kia không,
cô bạn đề nghị nói họ trả luôn tiền mặt. Tự nhiên tôi thấy chột dạ. Tôi nhớ
loáng thoáng đâu đó trên Gumtree khuyên các ứng viên là không nên cung cấp
thông tin tài khoản của mình cho bất cứ ai ở trên mạng. Tôi vội vàng kiểm tra
lại, tá hỏa phát hiện ra Gumtree khuyến cáo không được cung cấp thông tin tài
khoản cho bất cứ ai nếu chưa gặp mặt và nhận được việc làm.
Phúc đáp gia
đình đó, tôi viết rằng không thể đưa họ thông tin tài khoản. Họ đang vi phạm
luật chơi và tôi sẽ báo cáo lại điều này với Ban quản trị của Gumtree. May mắn
cho tôi, tiền vẫn còn nguyên trong tài khoản.
Đôi lúc tôi
cảm thấy mình chật vật để thích ứng với nhịp sống nhanh và hối hả ở Melbourne, cảm thấy khó
nuốt với nền văn hóa đa sắc tộc này. Thế nhưng cuộc sống vẫn tiếp diễn với tất
cả các cung bậc thăng trầm vốn có của nó. Tôi vẫn đi học, đi làm, dù làm những
việc tay chân. Vui vì mình có việc và hái ra tiền. Chạnh lòng vì mình vẫn chưa
bước chân vào được thế giới “cổ cồn trắng” của Mebourne. Một viên chức nhà nước
Việt Nam với công việc tốt, có vị trí xã hội, nhưng, không len chân nổi vào xã
hội “Tây” vì rào cản ngôn ngữ, IT thấp và chuyên môn kém cỏi của mình.
Trở về nhà
sau một ngày làm việc cho hãng di dộng LycaMobile, từ stop 124 B của tram 96,
tôi lang thang dọc theo sông Yarra để ngắm cảnh hoàng hôn đang buông phủ xuống
thành phố. Một đám đông hiếu kỳ đang vây quanh bên bờ sông. Thì ra là kíp quay
phim của hãng truyền thông nổi tiếng ABC của Úc chuẩn bị phỏng vấn trực tiếp
một nhân vật nào đó của Quốc hội cho bản tin chiều của họ. Mắt tôi mờ đi, máu
hừng hực chảy trong huyết quản. Đây chính là công việc tôi đang học, đam mê và
thử vận may. Nhìn ê-kíp quay phim chạy lăng xăng để lấy bối cảnh phỏng vấn, tôi
lại nhớ công việc của mình ở Việt Nam.
Trong suốt
học kỳ 1, tôi cũng từng vác máy quay phim, đi làm phóng sự truyền hình khắp nơi
ở Melbourne.
Một người bản xứ trong lần phỏng vấn đã nói tôi rằng ông ấy tin tôi có khả năng
làm việc ở đây. Vì tất cả những gì tôi đang làm thể hiện lòng nhiệt tình và say
mê. Nhưng nhiệt tình và say mê thì vẫn chưa đủ. Những gì nước Úc cần còn là
tính chuyên nghiệp, kỷ luật cao và tận tụy trong công việc. Tôi chợt thấy tiếc
thời gian mình đã phí phạm trong suốt hơn chục năm kể từ khi tốt nghiệp ở Việt Nam. Bệnh ì,
lười học hỏi và quan liêu trong nghề nghiệp đã hạn chế tôi quá nhiều trong hành
trình tìm việc phù hợp ở xứ người. Ở Úc, cơ may hoàn toàn không mỉm cười với kẻ
bất tài, lười biếng.
Tôi đứng vô
hồn trên mố cầu treo bắc ngang dòng sông Yarra, con sông xinh đẹp không kém gì
sông Seine hay Danube chảy qua thành phố Melbourne.
Xa xa kia là sòng bài hoàng gia Crown, tòa nhà chọc trời Ereka Skydeck, nơi làm
việc của tập đoàn truyền thông ABC, trụ sở tạp chí nổi tiếng “The Herald Sun”.
Giọt nước mắt nóng hổi chợt lăn thầm trên má. Một cơn gió nhẹ thổi qua. Gió đưa
giọt nước mắt kia hòa xuống dòng sông Yarra hay thổi nó đi ở một phương trời vô
định nào?
(Theo Thùy
Mai/ Nhịp Cầu Thế Giới)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét