Ngày ngày ông lão cần mẫn đi như một người bán rong
và rồi tiếng rao của lão cũng đến tai nhà vua. Vua ngạc nhiên vội cho cận thân
theo dõi và được mật báo rằng ông lão có hành tung như một vị hiền triết – cốt
cách khoan thai, đời sống chuẩn mực, đàng hoàng, lời ăn tiếng nói không thừa một
chữ, biểu hiện của người siêu phàm, thoát tục…
Nhà vua cả mừng bèn giả dạng thường dân đến gặp và
hỏi ông lão rằng bài học gì mà lão rao bán đến một nghìn lượng vàng? Ông lão
nói: Đây là bài học mà có thể làm cho người ta thoát khỏi những đau khổ của cuộc
đời, vượt qua khỏi những lầm lỗi và có thể đạt tới tột đỉnh vinh quang…
Nghe xong, nhà vua vẫn còn bán tín bán nghi nên bỏ
về, nhưng lòng cứ ray rứt bởi sức hấp dẫn của ý nghĩa bí ẩn của bài học đáng
giá ngàn vàng ấy. Rồi nhà vua quyết định mở ngân khố lấy ra một nghìn lượng
vàng rồi hạ chỉ mời ông lão vào hoàng cung. Ông lão cả mừng vì nhận ra đức vua
chính là người hôm trước đã gặp và hỏi lão về bí mật của bài học đáng giá ngàn
vàng. Vua nói: Ta chấp nhận hoặc bị lừa mất một nghìn lượng vàng hoặc thật sự sẽ
được một bài học vô giá.
Nói đoạn, nhà vua truyền cho quan Thủ ngân chất đủ
một ngàn lượng vàng trước mặt ông lão. Nhân đủ số vàng, ông lão cung kính dâng
lên đức vua một vuông lụa viết vỏn vẹn 10 chữ: “Phàm làm việc gì, suy nghĩ đến
hậu quả của nó”.
Đọc xong 10 chữ ấy, đức vua có cảm giác như mình đã
bị lừa, nhưng lời vua nặng tựa Thái Sơn, nên không kịp rút lại, đành “ngậm bồ
hòn làm ngọt”. Còn ông lão thì lặng lẽ chất vàng vào túi vải, cung kính vái tạ
vua rồi rời khỏi kinh thành.
Từ đó nhà vua cứ bị ám ảnh bởi 10 chữ: “Phàm làm việc
gì phải suy nghĩ đến hậu quả” và nếu nhà vua chỉ mua câu nói này với một lượng
vàng thì chắc hẳn Người đã quên bài học này từ lâu. Nhưng đằng này, mỗi chữ trị
giá tới 100 lượng vàng. Nghĩ vậy, đức vua vừa tức giận, vừa tiếc công quỹ và
câu nói nặng ngàn vàng đó đã nhập vào tâm nhà vua tự bao giờ để rồi mỗi khi nhà
vua làm việc gì đều suy nghĩ đến hậu quả của nó.
Từ khi đức vua mua “bài học ngàn vàng” thì cả triều
đình nhận ra nhà vua thay đổi từng ngày. Đức vua trầm tĩnh hơn, khôn ngoan hơn,
công tư phân minh, phân định mọi việc sáng suốt, ngồi trên ngai vàng trong
hoàng cung mà đoán định tình hình ở biên cương như thần…Đất nước từ đó bắt đầu
cường thịnh.
Thần dân thì mừng vui vì đời sống được an lành, thịnh
vượng. Nhưng chính nhà vua lại không nhận ra điều đó, ông chỉ bị ám ảnh bởi bài
học ngàn vàng và Người luôn tự nhủ: Phàm làm việc gì cũng phải suy nghĩ đến hậu
quả của nó! Nhờ vậy mà nhân cách nhà vua được tu chỉnh, đức vua không còn là một
Vương tôn thường kế vị ngai vàng, thích hưởng thụ như ngày xưa mà giờ đây làm
việc gì Người cũng suy nghĩ cho dân, cho nước.
ST
Nhớ lúc học lớp 5, lần đầu tiên đọc "Bài học ngàn vàng" chị thấy vô cùng thích thú! Bây giờ đọc lại vẫn y như vậy, gặp người bạn thân cũ!
Trả lờiXóa