A. Mục đích của phương Pháp tọa thiền.
Tọa thiền là một phương pháp rất thông
dụng, chẳng những trong đạo Phật mà ở ngoại đạo cũng vẫn có từ xưa.
Tọa thiền tức là ngồi để tham cứu một vấn
đề gì. Thế nên, tọa thiền không phải là một phương pháp chứng quả thành đạo, mà
là một trong vô lượng phương tiện giúp cho thân được an, để cho tâm không loạn
và được chánh niệm chánh quán. Ngoại đạo chỉ chú trọng nơi thân mà không để ý
đến tâm, trong khi thật ra, tâm mới là phần chánh, đáng chú trọng hơn cả.
B. Phương pháp tọa thiền.
Thân lúc nào cũng làm
duyên trợ cho tâm . Thế nên, nếu thân có những cử động thô thiển, khí lực sôi
nổi, và lẽ tất nhiên tâm ý sẽ phù động, do đó khó mà nhập định được. Cho nên,
trước khi tọa thiền, cần phải điều hòa thân. Vậy phải điều hòa thân bằng cách nào
?
a. Phải điều dưỡng sự ăn uống:
Sự ăn uống đối với thân rất hệ trọng, vì
bệnh thường phát sinh do nơi sự ăn uống. Có những thực vật hạp với cơ thể người
này, nhưng lại không thể hạp với người kia, và trái lại. Dù sao, không nên dùng
những thứ có dầu mở nhiều, tránh những chất hăng, kích thích thần kinh như càfé
đậm, rượu, trà đậm, thuốc hút v.v… mà chỉ nên dùng những món ăn sơ sài trong
sạch.
Trước giờ tọa thiền không nên ăn quá no mà
chỉ ăn vừa đủ,vì nếu ăn quá no sẽ làm mệt dạ dày, ngồi không yên ổn. Không ăn
chiều, lẽ tất nhiên là thích hợp đặc biệt với việc tọa thiền niệm Phật.
Trước khi tọa thiền, phải tắm rửa cho thân
thể được sạch sẽ để tránh khỏi ngứa ngấm trong người. Sau đó, trời lạnh thì mặc
áo ấm, trời nóng thì dùng y phục mỏng, rộng rãi và sạch sẽ. Đai lưng (lưng
quần) lúc nào cũng phải nới rộng ra.
Những điều trên đây giúp cho sự hô hấp dễ
dàng và không bị lay chuyển bởi thời tiết.
c. Giữ thân cho được ngay thẳng và vững
vàng:
(Nghĩa là làm thế nào mà khi quên nó,
không nghiêng ngã hay lay động). Muốn được như vậy, chỉ có cách duy nhất là
ngồi, vì đi, đứng hay nằm không thể đạt được mục đích vừa nói trên .
Nhưng nếu ngồi mà thòng hai chân xuống,
thì khi quên, thân lại cũng không vững. Hơn nữa lúc ở trong nhà, thất có bàn,
ghế, giường v.v… thì không nói làm chi, nhưng khi ra ngoài vườn tược, đồng
ruộng hay đến núi rừng để tọa thiền, khó tìm ra chỗ ngồi có thể thòng chân
xuống được dễ dàng.
Thế nên, chỉ có cách rút chân xếp bằng
lại, là giúp cho chúng ta ngồi ngay thẳng và vững vàng mà thôi.
Có nhiều cách ngồi mà hành giả cần phải
chọn lựa cho thích hợp với mình.
* Toàn
già (cũng gọi là kiết già hay
Kim Cang tọa): Gác bàn chân trái lên đùi bên mặt, gác bàn chân mặt lên bàn chân
trái, gót hai bàn chân đều phải sát vào bụng.
- Hàng ma tọa: gác bàn chân mặt trên đùi
bên trái (như Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát).
- Kiết tường tọa: gác bàn chân trái lên
đùi bên mặt (như Ngài Phổ Hiền Bồ Tát).
Trong ba cách ngồi, khi ngồi phải tập cho
đầu gối sát xuống chiếu như nhau, hai mông cùng chịu đều như nhau thì mạch máu
không bị cấn, chân không bị tê, cũng không nên dùng nệm quá dày. Một điều nên
để ý, là thường lúc ban sơ, khi vừa ngồi kiết già hay nghe một chân nặng, một
chân nhẹ. Để sửa chữa khuyết điểm đó, chỉ có một cách là dùng hai tay chống
xuống chỗ ngồi để nâng toàn thể thân lên và hạ bên chân hay mông nhẹ xuống
trước, bên nặng xuống sau, đôi ba lần thì hai chân hoặc hai mông sẽ đều, không
còn cảm tưởng nặng nhẹ nữa.
Tay: Hai bàn tay để ngửa, bàn tay mặt đặt trên
bàn tay trái, vừa sát bụng và để nhẹ trên hai bàn chân, hai đầu ngón tay cái
đâu lại (Tam Muội ấn)
Phương pháp để bàn tay như vậy, theo cổ
đức nói, làm cho điện lực trong thân lưu thông đều đặn, không biến thoát ra
ngoài, giúp cho Tâm dễ an ổn.
Lưng: Tay chân đều đâu vào đó rồi, phải lay
chuyển thân thể độ ba, bốn lần cho được ung dung và phải giữ xương sống ngay
thẳng, chẳng khác nào một cây cột đối với cái nhà. Nếu cột xiêu thì nhà đổ vậy.
Đầu, cổ: Đầu và cổ cũng phải giữ cho ngay, nhưng
không được ngước thẳng quá.
Mắt: Mắt hơi nhắm lại, để chỉ còn thấy
tướng trắng hay sáng bên ngoài mà thôi, đừng mở hẳn sẽ tán loạn; mà cũng đừng
nhắm hẳn sẽ bị hôn trầm.
Miệng: Miệng phải ngậm lại, chót lưỡi để trên
chân rằng hàm trên, răng phải để cho thong thả, đừng cắn cứng lại, nhờ đó hơi
thở sẽ nhẹ nhàng.
Khi thân đã nghiêm chỉnh
rồi, bấy giờ hành giả mới bắt đầu thở ra nhẹ nhàng nhưng cho dài, tâm nghĩ tất
cả ô trược trong thân đều tựa theo không khí mà ra ngoài hết. Đến khi hít vô
cũng phải nhẹ nhàng và cho dài, nghĩ bao nhiêu điều thanh tịnh bên ngoài đều
vào trong hết.
Làm như vậy được hai ba lần hay đến năm
bảy lần nếu cần, cho trong thân được khoan khoái. Sau đó phải giữ hơi thở nhẹ
nhàng thong thả, suông êm, dài ngắn cho quân bình.
Nên để ý, khi điều hòa hơi thở hành giả
thường gặp hai lỗi sau:
a. Phong tướng: tức là hơi thở ra hít vào, nghe có tiếng
gió, do vì hơi thở quá mạnh.
b. Suyễn tướng: tức là tuy thở ra vào không nghe tiếng,
nhưng lại gấp rút hoặc rít sáp không thông.
Nếu khi ngồi tĩnh tọa mà thấy hai tướng
trên đây, đó là triệu chứng tâm không được an định.
Nếu khéo điều nhiếp, dùng sổ tức thở ra
hít vào thong thả, ít lâu sẽ thuần thục, tự nhiên hơi thở sẽ điều hòa, huyết
mạch được lưu thông, trong người sẽ được ung dung khoan khoái.
Thế nên, điều hòa hơi thở là một công phu
hệ trọng đối với phép tĩnh tọa.
Trước khi tọa thiền, hành
giả có phát tâm trước, hoặc sổ tức, hoặc quán bất tịnh, hoặc niệm Phật v.v…
Nếu đã phát tâm niệm Phật, thì hành giả
phải nghĩ Ta- bà ngũ trược, nhớp nhơ, là nguồn gốc của muôn ngàn thống khổ, nơi
thân và hiện cảnh, phải làm thế nào thoát ly cho được, tức là phải yểm ly (chán
nản) sanh tử nơi Ta bà mà cầu sanh về Cực Lạc.
Hành giả nhớ ngay đến cảnh Cực Lạc thuần
vui không khổ, có đủ thắng duyên, thắng cảnh trợ lực cho hành giả mau thành
Phật quả, quảng độ chúng sanh, đến đức Phật A- Mi- Đà tướng hảo quang minh, lúc
nào cũng duỗi lòng từ tiếp dẫn chúng sanh về Cực Lạc quốc.
Lúc bấy giờ, hành giả khởi niệm câu dài “
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi tiếp dẫn Đạo sư A- Mi- Đà
Phật”, rồi lần lần thâu ngắn lại còn bốn chữ “ A Mi- Đà Phật” lúc đầu niệm lớn,
sau niệm thầm để nhiếp tâm cho an trụ vào đó. Khi niệm ra tiếng hoặc thầm, đều
cần thiết là phải niệm cho tiếng nổi rõ trong tâm chậm rãi, tâm ý nghe rõ, nhận
rõ từng tiếng, từng chữ, tức là “ Quán trí hiện tiền”. Nếu không tâm sẽ tạp
niệm (tán loạn), hay ngủ gục (hôn trầm).Nếu tán loạn, không rõ, lơ là hay khi
hôn trầm muốn đến, hành giả phải cử tâm ngay bằng cách chú ý đến câu niệm Phật.
Có khi hành giả cố gắng kiềm tâm, nhưng
tâm vẫn chạy và nếu tâm chạy mãi, thì có cách phải niệm Phật và nghĩ ở hai đầu
ngón tay cái, đầu hai ngón chân cái hoặc nghĩ ở nơi cái rún mà niệm.
Làm như vậy, thần kinh hệ sẽ hạ xuống, tức
là cái tâm sẽ hạ xuống mà bớt tán loạn.
Còn nếu bị hôn trầm thì phải nghĩ ở đỉnh
đầu hay ở trán mà niệm thì sẽ hết, vì ý chí phấn khởi.
Hoặc hành giả có thể niệm theo phương pháp
“ Thập niệm ký số”, là khi niệm Phật, phải ghi nhớ rành rẽ từ một đến mười câu,
hết mười câu liền trở lại một, cứ như thế xoay vần mãi. Nhưng phải niệm trong
vòng mười câu mà thôi, không được hai mươi, ba mươi câu, lại không nên lần
chuỗi vì dùng tâm ghi nhớ. Có thể phân làm hai đoạn từ một đến năm, từ sáu đến
mười. Hoặc còn thấy kém sức lại chia ra làm ba hơi, từ một đến ba, bốn đến sáu,
bảy đến mười.
Cần để ý: niệm nhớ và nghe phải rõ ràng, vọng niệm
mới không xen vào được. Dùng phép này lâu sẽ được nhất tâm.
Điều tâm là pháp môn tu chủ chánh. Nếu có
sự biến chuyển nơi thân, không nên để ý đến, mà phải chuyên gìn chánh niệm.
C. Phương Pháp giải tọa (xả thiền)
Khi xả thiền, hành
giả làm ngược lại tất cả. nghĩa là trước hết phải xả nơi tâm, kế xả nơi tức và
sau cùng là xả thân.
1. Xả tâm: Hành giả phải nhớ lại, coi hiện giờ mình
ngồi ở chỗ nào, nãy giờ mình làm gì, nhớ coi mình có tán loạn hay hôn trầm
không, và dù có hay không, cũng vẫn hồi hướng công đức về Tây Phương để trang
nghiêm Tịnh độ.
2. Xả tức: Sau khi xả tâm xong, hành giả mở miệng thở
ra vài hơi thật dài để cho khí nóng trong người giảm bớt, và để hồi phục lại
trạng thái bình thường như trước khi tĩnh tọa.
3. Xả thân: Tâm, tức đều xả xong, lúc bấy giờ hành giả
se sẽ giao động nơi lưng và cổ. Khi mạch lạc chạy đều, từ từ duỗi hai tay ra,
lấy hai bàn tay xoa nhè nhẹ với nhau, rồi xoa lên mắt. Sau đó uốn lưỡi một vài
lần và nuốt chút nước miếng.
Tay và mắt xả xong, đến lượt hai chân.
Trước hết phải lấy tay xoa hai bắp vế, rồi tháo lần lần hai chân ra, thoa hai
bắp chuối và hai bàn chân. Khi nghe hai chân nóng hết rồi, hành giả chuyển động
nhè nhẹ toàn thân rồi đứng dậy, đi tới đi lui.
D. Những điều cần thiết để tọa thiền có
kết quả.
Hôn trầm, ngủ nghỉ là
một chướng ngại trong việc tu thiền, thế nên nơi thân phải bớt ngủ nghỉ.
Phật dạy đầu hôm cuối đêm thì tham thiền,
nửa đêm thì tụng kinh để tự tiêu tức, nhưng nếu mình không kham nổi thì nên bớt
sự ngủ nghỉ. Ban đêm chỉ nghỉ ba canh, từ 11giờ đến 04 giờ sáng thôi, đó là lời
dặn dò của cổ đức vậy. Còn nơi tâm thì phải có sự điều nhiếp theo hai cách dưới
đây:
Nếu thực hành hai cách này mà không đắc
lợi trên đường chánh định, hành giả phải kiểm điểm lại nơi tâm coi sanh tội lỗi
chi không. Hằng ngày phải nói lời dịu dàng, hòa nhã cho tâm lắng xuống. Đối với
người và vật, giữ cho tâm mát mẻ và luôn luôn nhẹ nhàng.
Ngoài giờ tĩnh tọa, phải giữ câu niệm Phật
không rời tâm.Tâm tương ưng với chánh định thì phát ra khinh an, trong thân sẽ
thấy khoan khoái. Thân tâm hiệp nhất, thân cảnh không hai.
Lúc bấy giờ hành giả ở trong định vắng
lặng sẽ thấy thân tướng Phật, nghe Phật thuyết pháp và những cảnh giới nhiệm
mầu không sao kể xiết… Đó là tướng niệm Phật thiện căn phát hiện do công phu
tọa thiền niệm Phật mà thành công vậy.
-------------------
Trích HƯƠNG SEN VẠN ĐỨC
Tác giả: HT. Thích Trí Tịnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét