…. Sau khi xuất gia, vị ấy sống
chế ngự thân, chế ngự lời nói, chế ngự ý nghĩ, bằng lòng với nhu cầu tối thiểu
về ăn uống, y áo, hoan hỷ sống trong an tịnh.
Giới của Sa môn:
42. Khi đã xuất gia như vậy, vị
ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh
hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học tập trong giới
học, thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Sanh hoạt trong sạch giới hạnh cụ túc,
thủ hộ các căn, chánh niệm tỉnh giác và biết tri túc.
43. Thế nào là Tỳ kheo giới hạnh cụ túc?
Tỳ kheo từ bỏ sát sanh, tránh xa
sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến tất
cả hạnh phúc của chúng sanh và loài hữu tình. Như vậy là giới hạnh của vị ấy
trong giới luật.
Vị ấy từ bỏ lấy của không cho,
chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không
có trộm cướp, như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
44. Tỳ kheo từ bỏ nói láo, tránh
xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin
cậy, không lường gạt, không phản lại đối với đời. Như vậy là giới hạnh của vị
ấy trong giới luật.
Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh
xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ
ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để
sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy Tỳ kheo ấy sống hòa hợp những kẻ ly
gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa
hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Như vậy là giới
hạnh của vị ấy trong giới luật.
Vị ấy từ bỏ lời nói độc ác, tránh
xa lời nói độc ác. Vị ấy nói những lời nói không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương,
thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người. Như vậy là giới hạnh của vị
ấy trong giới luật.
Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm,
tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những
lời có ý nghĩa, nói những lời về chánh pháp, nói những lời về luật, nói những
lời đáng được giữ gìn, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có
ích lợi. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
45. Vị ấy từ bỏ làm hại đến các
hạt giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm. Từ bỏ ăn
phi thời. Từ bỏ đi xem múa hát, nhạc, diễn kịch. Từ bỏ trang sức bằng vòng hoa,
hương liệu, dầu thoa và các thời trang. Từ bỏ dùng giường cao và giường lớn. Từ
bỏ nhận vàng và bạc. Từ bỏ nhận các hạt sống. Từ bỏ nhận thịt sống. Từ bỏ nhận
đàn bà con gái. Từ bỏ nhận nô tỳ gái và trai. Từ bỏ nhận cừu và dê. Từ bỏ nhận
gia cầm và heo. Từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái. Từ bỏ nhận ruộng nương,
đất đai. Từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới. Từ bỏ buôn bán.
Từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường. Từ bỏ các tà hạnh như hối
lộ, gian trá, lừa đảo. Từ bỏ làm thương tổn, sát hại câu thúc, bức đoạt, trộm
cắp, cướp phá. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
46. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống làm hại các
hạt giống và cây cối như hạt giống từ rễ sanh, hạt giống từ nhánh cây sanh, hạt
giống từ đốt cây sanh, hạt giống từ chiết cây sanh, và thứ năm là hạt giống từ
hạt giống sanh. Còn vị ấy thì không làm hại hạt giống hay cây cỏ nào. Như vậy
là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
47. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống cất chứa và
thọ hưởng các đồ vật như cất chứa các món ăn, cất chứa các đồ uống, cất chứa
vải, cất chứa xe cộ, cất chứa các đồ nằm, cất chứa các hương liệu, cất chứa các
mỹ vị. Còn vị ấy thì từ bỏ cất chứa các vật trên. Như vậy là giới hạnh của vị
ấy trong giới luật.
48. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống theo các du
hí không chơn chánh như múa, hát, nhạc kịch, ngâm vịnh, nhịp tay, tụng chú,
đánh trống, diễn các tuồng thần tiên, mãi võ, đấu voi, đấu ngựa, đấu trâu, đấu
bò đực, đấu dê, đấu cừu, đấu gà, đấu chim cun cút, đấu gậy, đấu quyền, đấu vật,
đánh giặc giả, dàn trận, thao dượt, diễn binh. Còn vị ấy thì từ bỏ các loại du
hí không du hí như trên. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
49. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống đánh bài và
theo các trò giải trí như cờ tám hình vuông, cờ mười hình vuông, cờ trên không,
trò chơi trên đất, chỉ bước vào những ô có quyền bước, trò chơi quăng thẻ rồi
chụp nhưng không cho sụp đống thẻ, chơi súc sắc, chơi khăng, lấy tay làm viết,
chơi banh, chơi thổi kèn bằng lá, cày với chiếc cày giả, nhảy lộn nhào, chơi
chong chóng, chơi với đồ chơi bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ, chơi đoán
chữ viết trên không hay trên lưng, chơi đoán tư tưởng, chơi bắt chước bộ điệu.
Còn vị ấy thì từ bỏ đánh bài, và các loại giải trí như trên. Như vậy là giới
hạnh của vị ấy trong giới luật.
50. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, cũng vẫn sống dùng các
giường cao và giường lớn như ghế bành, ghế trường kỷ, nệm trải giường bằng len,
vải trải giường nhiều tấm nhiều mầu, chăn len thuê bông, nệm bông, nệm thêu
hình các con thú, mền bằng lông thú cả hai phía, mền bằng lông thú một phía,
mền có đính ngọc, mền bằng lụa, tấm khảm lớn có thể chứa 16 người múa, mền voi,
mền ngựa, mền xe, mền bằng da sơn dương khâu lại với nhau, mền bằng da con sơn
dương khâu lại gọi là kadali, tấm thảm với lều che phía trên, ghế dài có gối
đầu, gối chân màu đỏ. Còn vị ấy thì từ bỏ không dùng các giường cao và giường
lớn như trên. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
51. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, cũng vẫn sống dùng các đồ
trang sức và mỹ phẩm như thoa dầu, đấm bóp, tắm, đập tay chân cho mềm dẻo,
gương kem đánh mặt, vòng hoa và phấn son, phấn sáp và phấn mặt, vòng tay, tóc
giả trên đầu, gậy cầm tay, ống thuốc, gươm, lọng, dép thêu, khăn đầu, ngọc,
phất trần, vải trắng có viền tua dài. Còn vị ấy thì không dùng các loại trang
sức và mỹ phẩm như trên. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
52. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, cũng vẫn sống nói những
chuyện vô ích tầm thường như câu chuyện nói về vua chúa, câu chuyện về ăn trộm,
câu chuyện về đại thần, câu chuyện về binh lính, câu chuyện về hãi hùng, câu
chuyện về chiến tranh, câu chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống, câu chuyện
về vải mặc, câu chuyện về giường nằm, câu chuyện về vòng hoa, câu chuyện về
hương liệu, câu chuyện về bà con, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện về làng xóm,
câu chuyện về thị tứ, câu chuyện về thành phố, câu chuyện về quốc độ, câu
chuyện về đàn bà, câu chuyện về đàn ông, câu chuyện về các vị anh hùng, câu
chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước, câu chuyện về người đã chết,
các câu chuyện tạp thoại, các câu chuyện biến trạng của thế giới, câu chuyện về
biến trạng của đại dương, câu chuyện về sự hiện hữu và sự không hiện hữu. Còn
vị ấy thì từ bỏ nói những chuyện vô ích, tầm thường kể trên. Như vậy là giới
hạnh của vị ấy trong giới luật.
53. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống bàn luận
tranh chấp như nói: “Người không biết pháp và luật này, tôi biết pháp và luật
này. Sao người có thể biết pháp và luật này? Người đã phạm vào tà kiến, tôi nói
mới thật đúng chánh kiến. Lời tôi nói mới tương ứng, lời nói của người không
tương ứng. Những điều đáng nói trước, người lại nói sau. Những điều đáng nói
sau, người lại nói trước. Chủ kiến của người đã bị bài bác, câu nói của người
đã bị thách đấu. Người đã bị thuyết bại. Hãy đến mà giải vây lời nói ấy. Nếu có
thể được, gắng thoát ra khỏi lối bí.” Còn vị ấy thì từ bỏ những cuộc biện luận,
tranh chấp kể trên. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
54. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống cho đưa các
tin tức, hoặc tự đứng làm môi giới như cho các vua chúa, các đại thần của vua,
cho các vị Sát đế lỵ, cho các vị Bà la môn, cho các gia chủ, cho các thanh niên
và nói rằng: “Hãy đi đến chỗ ấy, hãy đi lại chỗ kia, mang cái này lại, đem cái
này đến chỗ kia.” Còn vị ấy từ bỏ đưa các tin tức và tự đứng làm môi giới. Như
vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
55. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống lừa đảo, nói
lời siễm nịnh, gợi ý, dèm pha, cầu lợi. Còn vị ấy thì từ bỏ nói lời lừa đảo và
siểm nịnh như trên. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
56. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng
những tà hạnh như xem tướng tay chân, chiêm tướng, triệu tướng, mộng tướng,
thân tướng, dấu chuột cắn, tế lửa, tế muỗng, dùng miệng phun hạt cải …. vào
lửa, tế vỏ lúa, tế tấm, tế gạo, tế thục tôi, tế máu, khoa xem chi tiết, khoa
xem địa lý, khoa xem mộng, khoa cầu thần ban phước, khoa cầu quỷ ma, khoa dùng
bùa chú khi ở trong nhà bằng đất, khoa rắn, khoa thuốc độc, khoa bò cạp, khoa
chim, khoa chim quạ, khoa đoán số mạng, khoa ngừa tên bắn, khoa biết tiếng nói
của chim. Còn vị ấy thì tránh xa những tà hạnh kể trên. Như vậy là giới hạnh
của vị ấy trong giới luật.
57. Trong khi một số Sa môn, Bà La môn, dầu đã dùng các món
ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà mạng như xem tướng
các hòn ngọc, tướng que gậy, tướng áo quần, tướng gươm kiếm, tướng mũi tên,
tướng cây cung, tướng võ khí, tướng đàn bà, tướng đàn ông, tướng thiếu niên,
tướng thiếu nữ, tướng đầy tớ nam, tướng đầy tớ nữ, tướng voi, tướng ngựa, tướng
trâu, tướng bò đựa, tướng bò cái, tướng dê, tướng cừu, tướng gia cầm, tướng
chim cun cút, tướng con tắc kè, tướng vật tai dài, tướng ma, tướng thú vật. Còn
vị ấy thì tránh xa những tà mạng kể trên. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong
giới luật.
58. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng
những tà mạng, như đoán trước: “Vua sẽ tiến quân, vua sẽ lùi quân, vua bản xứ
sẽ tấn công, vua ngoại bang sẽ triệt thối, vua bản xứ sẽ thắng trận, vua ngọai
bang sẽ thắng trận, vua bản xứ sẽ bại trận. Như vậy sẽ có sự thắng trận cho phe
bên này, sẽ có sự bại trận cho phe bên kia.” Còn vị ấy thì từ bỏ những tà mạng
kể trên. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
59. Trong khi có một số Sa môn,
Bà La môn, dầu đã dùng các món ăn tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng
những tà mạng, như đoán trước: “sẽ có nguyệt thực, sẽ có nhật thực, sẽ có tinh
thực, mặt trăng, mặt trời sẽ đi đúng chánh đạo, mặt trăng mặt trời sẽ đi ngoài
chánh đạo, sẽ có sao băng, các tinh tú sẽ đi đúng chánh đạo, các tinh tú sẽ đi
ngoài chánh đạo, sẽ có sao băng, sẽ có lửa cháy các phương hướng, sẽ có động
đất, sẽ có sấm trời, mặt trăng mặt trời các sao sẽ mọc, sẽ lặn, sẽ mờ, sẽ sáng,
nguyệt thực sẽ có kết quả như thế này, nhật thực sẽ có kết quả như thế này, mặt
trăng mặt trời đi đúng chánh đạo sẽ có kết quả như thế này, mặt trăng mặt trời
đi ngoài chánh đạo sẽ có kết quả như thế này. Các tinh tú đi đúng chánh đạo sẽ
có kết quả như thế này, các tinh tú đi ngoài chánh đạo sẽ có kết quả như thế
này, sao băng sẽ có kết quả như thế này, lửa cháy các phương sẽ có kết quả như
thế này, động đất sẽ có kết quả như thế này, sấm trời sẽ có kết quả như thế
này, mặt trăng mặt trời các sao mọc lặn sáng mờ sẽ có kết quả như thế này.” Còn
vị ấy thì tránh xa không tự nuôi sống bằng tà mạng kể trên. Như vậy là giới
hạnh của vị ấy trong giới luật.
60. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dẫu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng
tà mạng, như đoán trước: “sẽ có nhiều mưa, sẽ có đại hạn, sẽ được mùa, sẽ mất
mùa, sẽ được an ổn, sẽ bị hiểm họa, sẽ có bệnh, sẽ không có bệnh, hay làm các
nghề như đếm trên ngón tay, kế toán, cộng số lớn, làm thư, làm theo thế tình.”
Còn vị ấy thì tránh xa các tà mạng kể trên. Như vậy là giới hạnh của vị ấy
trong giới luật.
61. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng
những tà mạng, như sắp đặt ngày lành để rước dâu hay rễ về nhà, sắp đặt ngày
lành để đưa dâu hay rễ, lựa ngày giờ tốt để hòa giải, lựa ngày giờ tốt để chia
rẽ, lựa ngày giờ tốt để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt để cho mượn hay tiêu tiền,
dùng bùa chú để giúp người được may mắn, dùng bùa chú để khiến người bị rủi ro,
dùng bùa chú để phá thai, dùng bùa chú làm cóng lưỡi, dùng bùa chú khiến quai
hàm không cử động, dùng bùa chú khiến người phải bỏ tay xuống, dùng bùa chú
khiến tai bị điếc, hỏi gương soi, hỏi phù đồng thiếu nữ, hỏi thiên thần để biết
họa phước, thờ mặt trời, thờ đại địa, phun ra lửa, cầu Siri thần tài. Còn vị ấy
thì tránh xa các tà mạng kể trên. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới
luật.
62. Trong khi một số Sa môn, Bà
La môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng
những tà mạng, như dùng các ảo thuật để được yên ổn, để khỏi làm các điều đã
hứa, để được che chở khi ở trong nhà bằng đất, để dương được thịnh, để làm
người liệt dương, để tìm đất tốt làm nhà, để cầu phước cho nhà mới, lễ rửa
miệng, lễ tắm, lễ hy sinh, làm cho mửa, làm cho xổ, bài tiết các nhơ bẩn về
phía trên, bài tiết các nhơ bẩn về phía dưới, tẩy tịnh trong đầu, thoa dầu
trong tai, nhỏ thuốc mắt, cho thuốc qua lỗ mũi, xức thuốc mắt, thoa dầu cho
mắt, chữa bệnh cho mắt, làm thầy thuốc, mổ xẻ chữa bệnh cho con nít, cho thuốc
uống bằng các loại rễ cây, ngăn ngừa công hiệu của thuốc. Còn vị ấy thì tránh
xa các tà mạng kể trên. Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
63. Và như vậy, vị Tỳ kheo ấy,
nhờ đầy đủ giới luật nên không thấy sợ hãi từ một chỗ nào về phương diện hộ trì
giới luật, như một vị Sát Đế lỵ đã làm lễ quán đảnh, đã hàng phục kẻ thù địch,
không còn thấy sợ hãi từ chỗ nào về phương tiện thù địch. Cũng vậy, Tỳ kheo ấy
nhờ đầy đủ giới luật nên không thấy sợ hãi từ một chỗ nào về phương tiện hộ trì
giới luật. Vị ấy nhờ đầy đủ giới luật cao quý này nên hưởng lạc thọ, nội tâm
không vẩn đục. Như vậy là Tỳ kheo đầy đủ giới luật.
64. Thế nào là Tỳ kheo hộ trì các căn? Khi mắt thấy sắc, Tỳ
kheo không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì
khiến nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp
khởi lên, Tỳ kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ
trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm
giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến nhĩ căn không được chế ngự, khiến
tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân
ấy, hộ trì nhĩ căn, thực hành sự hộ trì nhĩ căn. Khi mũi ngửi hương………thân cảm
xúc………….ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham
ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ
trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy, nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy,
nên hưởng lạc thọ nội tâm, không vẩn đục. Như vậy là Tỳ kheo hộ trì các căn.
65. Thế nào là Tỳ kheo chánh niệm tỉnh giác? Tỳ kheo khi đi
tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhình thẳng, khi nhìn quanh, đều tỉnh giác;
khi co tay, khi duỗi tay, đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y,
đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt, đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu
tiện, đều tỉnh giác. Như vậy, Tỳ kheo chánh niệm tỉnh giác.
66. Thế nào là Tỳ kheo biết đủ? Tỳ kheo bằng lòng với tấm y để
che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi lại chỗ nào cũng mang theo y và
bình bát, cũng như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy,
Tỳ kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi
tại chỗ nào cũng mang theo. Như vậy là Tỳ kheo biết đủ.
67. Vị ấy, với giới uẩn cao quý
này, với sự hộ trì các căn cao quý này, với chánh niệm cao quý này, với hạnh
biết đủ cao quý này, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi,
hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và
ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú chánh niệm
trước mặt.
68. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời,
sống với tâm thoát ly tham ái, gội rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy
sống với tâm không sân hận; lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột
rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm,
thụy miên; với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm
hết hôn trầm, thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối tiếc, vị ấy sống không trạo cử, nội
tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống
thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với
thiện pháp.
69. Như một người mắc nợ, liền
làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, người ấy không những trả
được nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi dưỡng vợ. Người ấy nghĩ: “Ta trước kia mắc
nợ nên liền làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, ta không những
trả được những nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi dưỡng vợ.” Người ấy nhờ vậy được
sung sướng, hoan hỷ.
70. Như một người bị bệnh đau đớn
trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Sau một thời gian, người ấy
khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục. Người ấy nghĩ: “Ta trước kia
bị bệnh, đau đớn trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Nay ta khỏi
bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực hồi phục.” Người ấy nhờ vậy được sung sướng
hoan hỷ.
71. Như một người bị nhốt trong
ngục. Người ấy, sau một thời gian, được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản
không bị giảm tổn. Người ấy nghĩ: “Ta trước kia bị nhốt trong ngục, nay ta được
khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn.” Người ấy nhờ vậy
được sung sướng hoan hỷ.
72. Như một người nô lệ, không
được tự chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại. Người ấy, sau một
thời gian, thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người khác, được
giải thoát, được tự do, đi lại. Người ấy nghĩ: “Ta trước kia bị cảnh nô lệ,
không được tự chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại. Nay ta thoát
cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người khác, nay được giải thoát, được
tự do đi lại.” Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ.
73. Như một người giàu có, nhiều
tài sản, đang đi qua bãi sa mạc, thiếu lương thực, đầy những nguy hiểm. Người
ấy, sau một thời gian, đã đi khỏi sa mạc, đến đầu làng vô sự, yên ổn, không có
nguy hiểm. Người ấy nghĩ: “Ta trước kia giàu có, nhiều tài sản, đi qua bãi sa
mạc thiếu lương thực, đầy những nguy hiểm. Nay ta đã đi qua khỏi bãi sa mạc ấy,
đến đầu làng yên ổn, không có nguy hiểm. Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan
hỷ.
Định:
74. Như vậy, Tỳ kheo tự mình quán
năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô
lệ, như con đường qua sa mạc, cũng như không mắc nợ, như không bị bệnh tật, như
được khỏi tù tội, như được tự do, như đất lành yên ổn. Tỳ kheo quán năm triền
cái khi diệt trừ chúng.
75. Khi quán tự thân đã xả ly năm
triền cái ấy, hân hoan sanh; do hân hoan sanh nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân
được khinh an; do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Tỳ kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỳ kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn,
tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.
76. Như một người hầu tắm lão
luyện hay đệ tử người hầu tắm. Sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền
nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước
ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng
vậy, Tỳ kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân hình với hỷ
lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly
dục sanh ấy thấm nhuần.
Đó là quả thiết thực hiện tại của
hạnh Sa môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh
Sa môn trước.
77. Lại nữa, Tỳ kheo ấy diệt tầm
diệt tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không
tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỳ kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt làm cho sung
mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn
thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.
78. Ví như một hồ nước, nước tự
trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ
nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước
chảy ra, và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra
thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh,
không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy,
Tỳ kheo thấm nhuần tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do
định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân, không được hỷ lạc do định sanh ấy
thấm nhuần.
Đó là quả thiết thực hiện tại của
hạnh Sa môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh
Sa môn trước.
79. Lại nữa, Tỳ kheo ly hỷ trú
xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự cảm thọ mà các bậc Thánh gọi là “xả niệm
lạc trú,” chứng và an trú thiền thứ ba. Tỳ kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho
sung mãn tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên
toàn thân, không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.
80. Ví như trong hồ sen xanh, hồ
sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng. Những bông
sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống
dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần tẩm ướt, đầy tràn thấu
suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của tòan thể sen xanh, sen hồng
hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, Tỳ kheo thấm
nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ
ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm
nhuần.
Đó là kết quả thiết thực hiện tại
của hạnh Sa môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của
hạnh Sa môn trước.
81. Lại nữa, Tỳ kheo, xả lạc, xả
khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư, không khổ,
không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỳ kheo ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm
tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh
trong sáng ấy thấm nhuần.
82. Ví như một người ngồi, dùng
tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng
ấy che thấu. Cũng vậy, Tỳ kheo thấm nhuấn toàn thân mình với tâm thuần tịnh,
trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong
sáng ấy thấm nhuần.
Đó là quả thiết thực hiện tại của
hạnh Sa môn, còn vi diệu, thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh
Sa môn trước.
Tuệ:
83. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
thản như vậy. Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến chánh trí, chánh kiến. Vị ấy biết:
Thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo
nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt; trong thân
ấy, thức ta lại nương tựa và bị trói buộc.
84. Ví như một hòn lưu ly bảo
châu, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế
trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây
màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng nhạt. Một người có mắt cầm
hòn ngọc ấy trên tây sẽ thấy: Hòn lưu ly bảo châu này, đẹp đẽ, trong suốt, có
tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng.
Và sợi dây này được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ,
màu trắng hay màu vàng nhạt. Cũng vậy, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu
nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy.
Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến chánh trí, chánh kiến. Vị ấy biết: Thân này của
ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh,nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô
thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt. Trong thân ấy, thức ta lại
nương tựa và bị trói buộc.
Đó là quả thiết thực, hiện tại
của hạnh Sa môn, còn vi diệu và thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của
hạnh Sa môn trước.
85. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
thản như vậy, Tỳ kheo chú tâm, hướng tâm đến sự hóa hiện một thân do ý làm ra.
Vị ấy tạo một thân khác từ nơi thân này, cũng là sắc pháp, do ý làm ra, đầy đủ
các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào.
86. Ví như một người rút một cây
lau ra ngoài vỏ. Người ấy nghĩ: đây là vỏ, đây là cây lau; vỏ khác, cây lau
khác và cây lau từ vỏ rút ra. Ví như một người rút thanh kiếm từ bao kiếm;
thanh kiếm khác, bao kiếm khác, và thanh kiếm từ nơi bao kiếm rút ra. Ví như
một người lột xác một con rắn, người ấy nghĩ: đây là con rắn, đây là xác rắn;
con rắn khác, xác rắn khác và con rắn từ nơi xác rắn được lột ra. Cũng vậy, với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm, hướng tâm đến sự kiện hóa
một thân do ý làm ra. Vị ấy tạo một thân khác từ nơi thân này, cũng là sắc
pháp, do ý tạo thành, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào.
Đó là quả thiết thực hiện tại của
hạnh Sa môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh
Sa môn trước.
87. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, bình
thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm, hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng được
các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân;
hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư
không; độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong nước; đi trên nước
không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như con chim;
với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại
oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên.
88. Ví như một người thợ gốm khéo
tay, hay đệ tử người thợ gốm, với đất sét khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các loại
đồ gốm tùy theo sở thích. Ví như một người thợ ngà khéo tay, hay đệ tử người
thợ ngà, với ngà khéo đẽo dũa có thể làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích. Ví
như người thợ vàng, khéo tay hay đệ tử người thợ vàng, với vàng khéo tinh
nhuyễn có thể làm cho các loại đồ vàng tùy theo sở thích. Cũng vậy, với tâm
định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng,
vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến các thần thông. Vị
ấy chứng được các thần thông một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra
một thân; hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi
ngang qua hư không; độn thổ trồi lên, ngang qua đất liền như ở trong nước; đi
trên nước không chìm như đi trên đất liền; ngồi kiết già, đi trên hư không như
con chim; với bàn tay chạm và rờ mặt trời và mặt trăng, những vật có đại oai
lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên.
Đó là quả thiết thực hiện tại của
hạnh Sa môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh
Sa môn trước.
89. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm, hướng tâm đến thiên nhĩ thông. Tỳ kheo với thiên
nhĩ thanh tịnh siêu nhân có thể nghe hai loại tiếng chư thiên và người – xa và
gần.
90. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm, hướng tâm đến tha tâm thông. Tỳ kheo sau khi đi
sâu vào tâm của chúng sanh, của loài người với tâm của mình, vị ấy biết được
như sau:
Tâm có tham, biết là tâm có tham.
Tâm không tham, biết là tâm không tham.
Tâm có sân, biết là tâm có sân.
Tâm không sân, biết là tâm không sân.
Tâm có si, biết là tâm có si. Tâm
không si, biết là tâm không si.
Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên
chú. Tâm không chuyên chú, biết là tâm không chuyên chú.
Tâm đại hành, biết là tâm đại
hành. Tâm không đại hành, biết là tâm không đại hành.
Tâm vô thượng, biết là tâm vô
thượng. Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng.
Tâm thiền định, biết là tâm thiền
định. Tâm không thiền định, biết là tâm không thiền định.
Tâm giải thoát, biết là tâm giải
thoát. Tâm không giải thoát, biết là tâm không giải thoát.
93. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các
đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai
mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời,
một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại
và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: “Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như
thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như
thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây.” Như vậy, Tỳ kheo nhớ
đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.
95. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh.
Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh.
Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô
xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng. “Này các Hiền
giả, những Tôn giả này làm những điều ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các
bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các ác nghiệp theo tà kiến. Những người này sau
khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa địa ngục. Này các
Hiền giả, còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý,
không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các thiện nghiệp theo chánh
kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện
thú, cõi trời. Như vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống
chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang,
người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của
chúng.
97. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật
“đây là khổ,” biết như thật “đây là nguyên nhân của khổ,” biết như thật “đây là
khổ diệt,” biết như thật “đây là con đường đưa đến khổ diệt,” biết như thật
“đây là những lậu hoặc,”biết như thật “đây là nguyên nhân của lậu hoặc,” biết
như thật “đây là sự diệt trừ các lậu hoặc,” biết như thật “đây là con đường đưa
đến sự diệt trừ các lậu hoặc.” Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm
của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối
với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: Ta đã giải thoát. Vị
ấy biết: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện
tại, không còn đời sống nào khác nữa.