Tôi nghe như vầy: sau khi thành
đạo, Đức Thế Tôn chuyển bánh xe Pháp luân đầu tiên tại vườn Nai. Tại đây, Ngài
dạy năm vị Tỳ kheo đầu tiên rằng:
-
Này các Tỳ kheo, có hai cực đoan mà người xuất gia phải
tránh xa. Một là đắm nhiễm các dục thấp hèn, thô bỉ, phàm tục, không dẫn đến
đức hạnh thánh nhân, không liên hệ đến mục đích tu tập. Hai là tự làm khổ mình
bằng các lối tu khổ hạnh ép xác, không thích hợp với những phẩm hạnh bậc Thánh,
không dẫn đến mục đích giải thoát.
-
Này các Tỳ kheo, vị hành giả có chánh trí phải loại bỏ
hai cực đoan vô ích này. Hãy đi theo con đường Trung Đạo do Như Lai chứng ngộ,
có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấu rõ sự vật, dẫn đến an tịnh, thánh
trí, giác ngộ và Niết Bàn.
-
Này các Tỳ kheo, con đường Trung Đạo, chính là tám con
đường chánh: Quan điểm chân chánh, tư duy chân chánh, lời nói chân chánh, hành
vi chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, nổ lực chân chánh, ý niệm chân chánh và
thiền định chân chánh.
-
Này các Tỳ kheo, sau đây là bốn chân lý vi diệu của
cuộc đời:
Chân lý thứ nhất là thực tại khổ đau.
Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu mà phải xa nhau
là khổ, thù ghét mà phải gặp nhau là khổ, mong cầu mà không toại nguyện là khổ
và chấp vào năm nhóm nhân tính (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là khổ.
Chân lý thứ hai là nguyên nhân dẫn đến
đau khổ. Đó là phiền não nhiễm ô, là tâm ái dục, là sự tham đắm và chấp thủ về
cái ta, cái của ta, là dục ái, hữu ái và phi hữu ái.
Chân lý thứ ba là Niết bàn, tức là sự
trừ diệt hoàn toàn gốc rễ của đau khổ và những nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Đó
là sự ly tham, sự từ bỏ, sự giải thoát và không còn chấp trước.
Chân lý thứ tư là con đường dẫn đến
Niết bàn, đó là tám con đường chân chánh, là con đường Trung Đạo.
-
Này các Tỳ kheo, cần phải liễu tri về thực tại khổ đau.
Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe, nay ta đã khám phá, có khả năng
đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấu rõ sự thật. Này các Tỳ kheo, cần phải trừ
diệt hoàn toàn gốc rễ đến khổ đau. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe,
nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấu rõ sự vật.
Này các Tỳ kheo, cần phải tu tập trọn vẹn con đường dẫn đến Niết Bàn. Đó là
điều trước đây ta chưa từng được nghe, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại
pháp nhãn và trí tuệ thấu rõ sự vật.
Như vậy, này
các Tỳ kheo, chỉ khi nào tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn chân lý
vi diệu của cuộc đời dưới ba sắc thái gồm mười hai khía cạnh đã trở nên hoàn
toàn sáng tỏ, thì khi ấy Như Lai mới xác nhận với Thế gian, gồm chư thiên, ma
vương, Phạm thiên, giữa các đoàn thể Sa môn, Bà la môn, giữa loài trời và loài
người rằng: Như Lai đã chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tâm Như Lai đã
giải thoát và an tịnh tuyệt đối, đời sống này là đời sống cuối cùng. Như lai
không còn bị luân hồi sanh tử nữa.
Khi bánh xe
Pháp đầu tiên này được Như Lai vận chuyển, tuyên bố, các hàng chư thiên trên
địa cầu đều cung kính khen ngợi: “Pháp môn này thật là vi diệu. Không có Bà La
môn, Sa môn, Chư thiên, Ma vương hay Phạm
Thiên nào có thể thuyết giảng được. Đây là chân lý vi diệu vừa được đấng giác
ngộ khám phá và truyền bá, đem lại an lạc và hạnh phúc cho loài trời, loài
người.
Lúc ấy, các
chư thiên ở cõi trời Tứ đại Thiên vương, cõi trời Đao Lợi, trời Dạ ma, trời Đâu
Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, trời Phạm Chúng, trời Đại Phạm, trời
Thiếu Quang, trời Vô Phiền và các chư thiên, Phạm Thiên cũng đều đồng thanh
khen ngợi vài lần như vậy.
Trong khoảng
thời gian ấy, mười ngàn thế giới đều chấn động và vang rền tiếng Pháp, rồi một
luồng hào quang rộng lớn, rực rỡ phát chiếu, làm sáng cả vũ trụ. Ngay thời pháp
này, tôn giả Kiều Trần Như đã giác ngộ và được Đức Phật xác chứng là A Nhã Kiều
Trần Như.
Nam mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét